Gia giảm bài Bổ trung-Theo kinh nghiệm tác giả

Gia giảm bài Bổ trung ích khí theo kinh nghiệm tác giả

  • Bệnh nhân khí trệ, đau ở eo lưng, nên bội dụng Thăng ma (chứng này là do lao lực, khí trệ ở trung tiêu. Sách chép: “... Khí trệ thì eo lưng đau...”, cần dùng Thăng ma để thăng đề khí trệ thời bệnh sẽ khỏi. Có nhiều các phương thư gia Đỗ trọng là không hợp)
  • Tỳ hư, đại tiện lỏng, bỏ Đương quy gia Bạch thược, Phục linh (Bạch thược có tác dụng thu liễm, Linh có tác dụng thấm thấp. Nhưng nếu Tỳ âm yếu quá, thời vẫn phải để Đương quy mà phải tẩm rượu, sao kỹ tới ba lần cho thật khô)
  • Tỳ hư ăn vào không tiêu, nhưng chứng hậu chưa đến nỗi là do Tiên thiên hỏa hư, nên bội dùng Bạch truật gia thêm một ít Can khương, Phụ tử để giúp thêm sức vận hóa; đồng thời cấm hẳn các vị Chỉ xác, Thần khúc, Sơn tra, Mạch nha (Sách chép: Tỳ lấy tiêu hóa thức ăn làm nhiệm vụ, giờ cơ quan đó bị bệnh thời nên bồi bổ thêm vào, không nên dùng những thứ “khắc phạt...”).
  • Từ quá trưa trở về chiều phát sốt nóng, bụng hư trướng...đó là Hậu thiên thổ hư không chứa được hỏa, (hỏa tức là khí), gia Phụ tử, Ngũ vị để liễm khí “tàng dương”, thời chứng nhiệt chướng sẽ khỏi (chứng nhiệt này, Hoàng bá không thể chữa khỏi; mà chứng chướng này Trầm hương cũng không thể giáng được).
  • Đại tiện khô và cứng, tiểu tiện ít và đỏ, miệng nhạt và lở, trong bụng có nóng nảy, ăn nhiều chóng đói, hay uống nước vặt, gia Mạch môn, Ngũ vị và thêm gấp đôi Thục địa, Can khương

  • (Lý Thời Trân nói: “Thục địa là vị thuốc chính của Tỳ...”. Câu này là một phát minh rất có giá trị. Nhưng xem các bài thuốc cổ, những bài bổ Tỳ vị này ít thấy trọng dụng. Ngay như trong Kim quĩ, phàm những bài bổ tỳ vỵ mà có Thục đều thấy giảm đi một nửa... Đó có lẽ là vì thổ hư mà ngại chăng? 

    Riêng tôi đối với các bài thuốc bổ Tỳ, đem Thục địa sao cho thật khô, bốc mùi thơm, rồi mới dùng... Sách chép: “... Tỳ ưa mùi thơm...” cho nên phàm các vị thuốc có mùi thơm đều dẫn về tỳ trước, vì cớ đó mà mỗi khi tôi dùng Thục địa sao thơm đều thu được công hiệu rất chóng. 

    Do đó ta nhận thấy: các loại âm dược, nếu dùng lâu tất hại Vỵ khí, chỉ có chứng Vỵ hỏa bốc lên quá mạnh, thời dùng hẳn Sinh địa làm tá, để giúp thêm cho công dụng “khôn nhu”, và bổ thêm khí âm cho Tỳ. Đó là tôi dựa theo phát minh của Lý Thời Trân mà sáng tạo ra cách bào chế như vậy, xin ghi để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu).

  • Những người hư yếu bị cảm mạo, không thể phát hãn, tuyệt đối không nên dùng phong dược. Nếu muốn cho có mồ hôi, nên dùng Hoàng kỳ tẩm rượu sao. Bạch truật tẩm mật và rượu sao, lại gia thêm một ít Phụ tử để giúp về phần khí hóa. Muốn cho mồ hôi không ra nữa thì giảm Đương quy (vì mồ hôi sinh ra từ huyết); và gia Bạch thược, Ngũ vị (Đây chỉ là đối với người hư yếu mà cảm mạo, nên mượn các vị đó để “phát” hoặc “thu”. Nếu vệ khí hư quá thời không dùng được. Chỉ nên đổi theo phương pháp “dùng âm dẫn dương” mới có thể được). 
  • Người “hư vừa” mà cảm mạo, lại kèm thêm chứng nội thương vì uống ăn, nếu muốn phát hãn dùng Hoàng kỳ sống (rửa qua rượu) và Bạch truật không sao (bài Bổ trung chủ yếu là “trợ dương”, chứ không phải là thuốc phát hãn. Nhưng muốn “dùng âm dẫn dương” sẽ thu được kết quả “không tán mà tự tán”, điểm này rất ít người hiểu). 
  • Sốt rét, sốt rét kinh niên hư yếu, rét nhiều nên dùng Nhân sâm gấp đôi và gia thêm một ít Phụ tử. Nếu sốt nhiều, nên dùng Đương quy gấp đôi và gia thêm ít Nhục quế đồng thời châm chước gia thêm ít Bán hạ. Nhưng đều dùng vị Hà thủ ô làm chủ dược, và gia Gừng nướng, Đại táo, Thường sơn, Thảo quả để chặn hẳn bệnh tà, công hiệu rất chóng (Trên đây là tâm đắc của tôi). 
  • Người cảm mạo phong hàn, không chịu đựng được thuốc tán biểu, hoặc vì “phòng lao” rồi lại tiếp luôn đến “lao dịch” mà cảm mạo, hoặc sau khi lao dịch bị cảm mạo rồi lại tiếp luôn đến “phòng lao”... nếu sợ lạnh, nên kíp gia Phụ tử; sợ nóng nên kíp gia Chi tử.
  • Dạ dày táo trướng (thực), ăn uống không tiêu, đại tiện táo kết... Y giả dùng bài Tứ quân gia thêm các vị “hành trệ”, thời “trướng, thống” hơi bớt, mà táo kết lại càng tăng. Lại dùng bài Lục vị gia thêm các vị hoạt huyết để nhuận táo... chứng táo tuy hơi bớt mà chứng “trướng” lại trở lại. Nên dùng bài Bổ trung, bội dụng Thăng, Sài gia Mộc hương để “thăng đề” dương khí.

Trên đây là một số tâm đắc của tôi, xin tường thuật để các đồng nghiệp cùng tham khảo

Chứng chỉ định


    Lãn tôi xét: Bài Bổ trung ích khí thang do Lý Đông Viên đặt ra, mục đích để điều trị chứng dương hư phát sốt, và người vốn hư lại cảm mạo, nội thương kèm với ngoại cảm, v.v... 

    Dương hư thời hãm xuống (cũng như âm hư thời bốc lên), tà khí liền thừa hư mà vào cho nên chủ chốt bài này là “thăng đề dương khí”, khiến “trung khí” vượng thời tà sẽ không cần đánh mà tự lui... Vốn không phải có tác dụng bổ khí huyết, cũng không phải một bài có thể uống lâu. 

    Khá tiếc có nhiều người không chịu xét rõ âm dương hư thực và nội thương ngoại cảm... Hễ thấy phát sốt là dùng ngay bài Bổ trung, và tự cho là ổn đáng, thật quá sai lầm! 

    Xem nội dung bài thuốc: Bạch truật bổ dương khí của Vỵ; Sâm, Kỳ bổ Tỳ mà kiêm bổ Phế; Quy bổ âm huyết của Tỳ, khiến cho thổ đầy đủ đức “khôn nhu” mới có thể sinh ra được mọi vật; Chích thảo có tác dụng ôn trung và làm điều hòa các vị kia, cho “trung châu” được nhờ sự bổ ích; lại e tính các vị bổ phần nhiều nê trệ, cho nên lại dùng Trần bì cho nó dẫn; gia chút ít Thăng, Sài làm sứ, một mặt để dẫn cái sức của Sâm, Kỳ, đồng thời cũng lại làm cho khí dương hạ hãm được thăng lên. 

    Nếu dùng bài Bổ trung mà lại bỏ hai vị Thăng, Sài thời thật là không hiểu rõ ý nghĩa của Bài bổ trung.


Dưới đây xin lược thuật một số chứng bệnh thích hợp với bài Bổ trung để các đồng nghiệp cùng nhận xét:

  • Người hư yếu cảm mạo, nên châm chước nặng nhẹ mà gia thêm thuốc giải biểu.
  • Vì làm lụng vất vả, đến nỗi tổn thương mà sinh bệnh, không có chút ngoại tà nào, nên lượng gia thêm các loại thuốc lý khí, lý huyết.
  • Nội thương về ăn uống, lại kèm thêm ngoại cảm, nên phân tích bệnh thuộc “ngoại” hay “nội” đằng nào nặng hơn, để gia giảm sử dụng.
  • Người hư yếu bị thương thực, nên lượng gia loại thuốc tiêu đạo mà vừa bổ vừa tiêu. Nếu là người khỏe mà bị thương thực, thời đã có sẵn bài Bình vỵ tán đủ khả năng điều trị, không cần dùng bài này.
  • Người ốm mới khỏi, vì làm lụng mệt nhọc mà ngã bệnh lại, nên tùy từng chứng biểu hiện mà gia các vị thích hợp, mượn “bổ” làm “công” sẽ thu được kết quả.
  • Người bị bệnh “âm dương dịch” nên chia hàn nhiệt mà chữa; hàn gia Phụ tử, nhiệt gia Hoàng liên.
  • Các chứng “hạ thoát hạ hãm”, như tiết tả, đi tháo hoặc ra như tháo nước; hoặc bị “kiết lỵ” lâu ngày mà thành “lòi trôn trê”, đi đái vặt luôn; sẩy thai, băng huyết và sau khi đẻ bị sa dạ con... nên gia giảm sử dụng, nhất là vị Thăng ma nên dùng nhiều gấp đôi, còn Sài hồ thời vẫn để nguyên số lượng cũ.

Những điểm nói trên đều là đối chứng dụng dược. Nhưng lại còn có khi bệnh ở trên chữa ở dưới, bệnh ở dưới chữa trên, hoặc lấy bổ làm công, lấy công làm bổ, v.v... Đó lại là “pháp ở ngoài pháp” cốt ở khi lâm sàng tùy cơ ứng biến, nói không thể xiết.

Chứng chống chỉ định


Về chống chỉ định dùng bài Bổ trung, sách xưa tuy cũng có nói nhưng còn rất sơ sài. Trên kia tôi đã tường thuật về các chứng chỉ định, ở đây tôi lại tường thuật về các chứng chống chỉ định, vạch rõ các lý lẽ để hoàn thiện phương pháp sử dụng bài Bổ trung.

  • Những chứng đờm nôn ọe, phát sinh tại Thượng tiêu, và những chứng thấp nhiệt thương thực, đầy tức ngực... phát sinh tại Trung tiêu v.v... đều không nên dùng (Đờm, ẩm thấp và nhiệt đều kèm có Tướng hỏa, tính của hỏa đã bốc lên, lẽ nào lại còn cho nó thăng lên nữa. “Đầy” tức ngực ắt do trung tiêu bị uất cũng không nên cho thăng).
  • Nhiệt lỵ khi mới phát sinh mà đã “vội đi mót rặn” (hậu trọng) không nên dùng (Hậu trọng là do trệ khí ở dưới, nên làm giáng xuống, không nên cho thăng lên, vì thăng thời càng uất trệ. Giờ làm cho giáng xuống chủ yếu là để hành trệ, trệ hành được thời bệnh sẽ khỏi).
  • Các chứng thuộc về thấp nhiệt không nên dùng (Khí thấp nhiệt ảnh hưởng tới nội tạng, phần nhiều ở bộ phận dưới, nếu làm cho thăng lên, có khác gì rước voi về dày mồ. Muốn chữa chỉ nên dùng phương pháp thấm lợi, hút bỏ chất ẩm chất nóng ra đường tiểu tiện sẽ khỏi).
  • Các chứng bệnh của trẻ em, dùng bài Bổ trung phải nên thận trọng (trẻ em còn thuần dương, tính của dương ưa bốc lên, giờ nếu lại cho uống loại thuốc thăng đề, tất sẽ gây thành “trạng thái dương trơ trọi” rất tai hại).
  • Những người nguyên âm trong Vỵ hư, không nên dùng (Tỳ Vỵ ưa ngọt mà ghét đắng, ưa bổ mà ghét công, ưa ấm mà ghét lạnh, ưa thông mà ghét trệ, ưa thăng mà ghét giáng, ưa cao mà ghét thấp... Rất hợp với tính vị của bài Bổ trung. Nhưng dùng vào trường hợp khí nguyên dương của Tỳ Vỵ không đầy đủ thời rất đúng. Nếu dùng vào trường hợp khí nguyên âm của Tỳ Vỵ không đầy đủ, thì e không hợp. Vì trong bài đó khí dược nhiều, huyết dược ít, lại có những vị có tác dụng thăng đề và cay, nếu là người âm hư thời phù hỏa dễ bốc lên, mà hư khí lại càng dễ nghịch).
  • Những người da thịt sưa hở, mà mồ hôi cứ ra mãi không cầm được, không nên dùng (Chứng này phát sinh do Vỵ khí hư, lẽ nào lại dùng Thăng, Sài cho thăng tán nữa. Cho nên cần phải nhận rõ: Bổ trung không phải là bài thuốc liễm hãn. Những người nông nổi thấy trong bài có vị Hoàng kỳ, liền đem Thăng, Sài tẩm mật sao để uống, chẳng những không ăn thua gì mà lại còn gây thêm cái vạ “tẩu tiết” rất tai hại. Tình trạng này thì trông thấy khá nhiều. Nên biết rằng, muốn cầm mồ hôi, nên chọn những vị có tính chất nhuần tĩnh, còn những loại thuốc có tính kích thích, thời không nên dùng).
  • Những người không có biểu tà, mà dương hư phát sốt không nên dùng (âm hư thời không nên giúp dương... Phương chi tính của hỏa là bốc lên, lẽ nào lại còn dùng Bổ trung cho nó thăng đề lên nữa).
  • Những người dương khí đã mất nơi căn bản, mà phát sinh các chứng “đới dương” hoặc “cách dương” không nên dùng (Dương đã mất nơi căn bản, nếu lại uống loại thuốc thăng đề như bài Bổ trung có khác chi lửa đã cháy lại tưới thêm dầu, càng làm cho chóng vong thoát).
  • Người Tỳ Phế yếu mà thở gấp và suyễn, không nên dùng (Chứng này do khí hư không còn đủ sức về nguồn... Trong lúc âm dương còn đang lẫn lộn, lẽ nào còn dùng bài này để cho phát tán?).
  • Người Mệnh môn hỏa suy, mà hư hàn, ỉa chảy mãi không cầm... không nên dùng (Lúc này ở Hạ tiêu chỉ còn một chút dương mong manh, nếu không cố ghìm nó lại mà lại còn làm cho nó thăng đề, tất phải đi đến tình trạng hết sạch. Sở dĩ có người dám dùng liều như vậy, chỉ vì nhận lầm câu trong Nội kinh “... tả lâu thời thăng đề lên...”. Chính tôi đã trông thấy nhiều trường hợp như vậy, hết sức can ngăn mà không được, thật đáng ngán!).
  • Những người thủy kém hỏa bốc... mà sinh ra thổ huyết và nục huyết... không nên dùng (trong lúc huyết dẫn đi càn, chỉ nên dùng các dược vật có tính chất yên tĩnh, mới nén nó xuống được. Nếu lại dùng bài có tính chất thăng đề như Bổ trung, có khác chi lửa đã cháy lại tưới thêm dầu, còn sống sao được).
  • Người tay chân giá lạnh, dương khí muốn thoát không nên dùng (Bệnh thế đến lúc này là rất nguy, chỉ nên kịp thu hồi lấy dương khí cho bền vững, đừng thấy trong bài này có Sâm, Truật mà bỏ quên tác dụng “sơ biểu” của Hoàng kỳ, và “tiết khí” của Trần bì cùng các loại thuốc thuộc về âm như Quy, và các loại thuốc thăng tán như Thăng, Sài)
  • Những người trung khí hư quá, biến thành nhiều tạp chứng không nên dùng (Công năng của bài Bổ trung là chủ về các chứng nhọc mệt mà cảm hàn với dương hư (cai ngược: sốt rét cách nhật)... là nên sử dụng

  • Lại như người dương khí hư lắm, bên ngoài hoàn toàn không có chứng hàn, chứng nhiệt phát sinh bởi biểu tà... thời những vị như Thăng, Sài dùng rất không hợp. Bởi hai vị đó đã khổ hàn, tính lại chuyên sơ tán. Tuy có thuyết nói: “Thăng vào Tỳ Vỵ, Sài vào can đởm...” có khả năng dẫn thanh khí đi lên nhưng phải là có “tà” mới nhân các tác dụng đó để làm cho tan đi, nếu không có tà, há lại không vì thăng tán mà làm hao tổn mất trung khí hay sao? Dù cho bài Bổ trung lấy bổ ích làm chủ, nhưng lại phải nhờ Thăng, Sài để dẫn đạt thanh khí, nếu chỉ hư vừa thôi, còn có thể tạm bợ đôi chút, nhược bằng hư quá, quyết không thể mượn cá nấu canh như thế được.

    Gặp trường hợp đó, dù cho toàn dùng thuốc bồi bổ, còn e không kịp, nếu lại còn xen vào những vị thuốc sơ tiết thời còn khỏi sao được? Vả lại những bài thuốc bổ dương phần nhiều có tác dụng làm cho thăng lên, vì cái bản tính của dương là thăng. Chỉ dùng tác dụng “thăng” mà không dùng tác dụng “tán” mới đúng với đại pháp bổ dương. Trong đó tự có hàm nghĩa riêng, hà tất phải dùng Thăng, Sài.

    Sách chép: Những người bị năm chứng lao, bảy chứng thương, rất kỵ Sài hồ... Bởi nó đã có tác dụng “tán” thời không khi nào có thể “tụ” được, đã có tác dụng “tiết” thời cũng không khi nào có thể “bổ” được; cho nên đến cả cái tính vị khổ hàn cũng quyết không phải là một vị có công năng “phù dương”.

    Người xưa có câu: dương hư quá, không thể dùng tiết, âm hư quá, không thể dùng thăng, chân hỏa suy vi cũng không thể dùng thanh lương... Tôi có bài luận về sự dùng nhầm bài Bổ trung chép trong tập Đạo lưu dư vận, nói rất kỹ, xin đồng nghiệp hãy cùng tham khảo