Học thuyết Tạng phủ

Tạng là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết, tân, dịch. Có 5 tạng là: tâm (phụ tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.

I. Tạng Tâm

  • Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài. Tâm phụ trách các hoạt động về thần trí, huyết mạch, khai khiểu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt

1. Chủ thần trí

Thần trí là những hoạt động về tinh thần, tư duy. Tinh và huyết là cơ sở cho hoạt động tinh thần, vì tâm chủ huyết nên tâm chủ cả về thần trí. Tâm là nơi cư trú của thần nên nói “tâm tàng thần”
  • Tâm khí và tâm huyết đầy đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo. Tâm huyết không đầy đủ xuất hiện các triệu chứng bệnh như: hồi hộp, trống ngực, mất ngủ, hay quên, hay mê; khi tâm huyết có nhiệt gặp triệu trứng như mê sảng, hôn mê…

2. Chủ huyết mạch, biểu hiện ra mặt

  • Tâm khí có chức năng thúc đẩy huyết dịch trong lòng mạch đi nuôi dưỡng toàn thân. 
  • Nếu tâm khí đầy đủ, huyết dịch sẽ được vận hành không ngừng, toàn thân được nuôi dưỡng tốt, biểu hiện sắc mặt hồng hào, tươi nhuận, trái lại khi tâm khí bị giảm sút có nghĩa chức năng thúc đẩy không tốt, sự cung cấp huyết dịch giảm đi thì sắc mặt xanh xao, có khi huyết dịch bị ứ trệ gây ra các chứng mạch sáp, kết. lưỡi có điểm ứ huyết….

3. Khai khiếu ra lưỡi

  • Biệt lạc của kinh tâm thông ra lưỡi, khí huyết của tâm đi ra lưỡi để duy trì hoạt động của lưỡi và chất lưỡi. 
  • Trên lâm sàng xem chất lưỡi để chẩn đoán bệnh của tạng tâm: chất lưỡi đỏ là tâm nhiệt; chất lưỡi nhạt là tâm huyết hư; chất lưỡi xanh có điểm ử huyết là tâm huyết và khí ứ trệ …

4. Tâm bào lạc

  • Tâm bào lạc là tổ chức bên ngoài của tâm để bảo vệ tâm, tránh tà khí xâm nhập vào tạng tâm. 
  • Trên thực tế lâm sàng các triệu chứng bệnh của tâm và tâm bào lạc giống nhau: như trong bệnh học truyền nhiễm có sốt (ôn bệnh) gây hôn mê thì được gọi là “nhiệt nhập tâm bào”, gần giống chứng hôn mê của tâm nhiệt.

5. Quan hệ sinh khắc và biểu lý

  • Tâm hỏa sinh tỳ thổ, khắc phế kim
  • Tâm liên quan biểu lý với tiểu trường

II. Tạng Can

Can chủ về tàng huyết và chủ về sơ tiết, can chủ cân, khai khiếu ra mắt, vinh nhuận ra móng chân, nóng tay.

1. Chủ tàng huyết

  • Tàng huyết là tàng trữ và điều tiết lượng máu. Lúc nghỉ ngơi, lúc ngủ nhu cầu về huyết dịch ít, máu tàng trữ tại tạng can; ngược lại khí vận động, nhu cầu dinh dưỡng cao thì can lại bài xuất ra cân bằng như cầu của cơ thể. 
  • Khi chức năng tang huyêt của can bị rối loạn sẽ ảnh hưởng đến các tạng khác mà sinh ra các triệu chứng bệnh như: khí can huyết không đầy đủ thấy hoa mắt, chóng mặt, chân tay co quắp, kinh ít có thể bế kinh , móng tay chân rễ gẫy, long tóc hay rụng… ; khi can khí bị súc động, huyết đi lạc đường, có thể thấy các hiện tượng xuất huyết như nôn ra máu, chảy máu cam, băng huyết, rong huyết….

2. Chủ sơ tiết (điều đạt)

Sơ tiết chỉ sự thư thái, thông thường còn gọi là điều đạt. Can khí chủ về sự sơ tiết giúp cho sự vận hành khí của các tạng phủ được rễ ràng, thông suốt, thăng giáng được điều hoà. Can khí sơ tiết kém sẽ có những biểu hiện đặc biệt ở tình chí và tiêu hóa:
  • Về tình trí: do hai tạng tâm và tạng can phụ trách. Can khí bình thường thì khí huyết vận hành điều hoà, tinh thần thoải mái. Trái lại can khí sơ tiết kém sẽ gây nên tình trạng khí bị uất kết hoặc hưng phấn quá độ; đối với can khí uất kết thấy tr/ chứng như ngực sườn đầy tức, hay u uất, suy nghĩ, thở dài, với con gái kinh nguyệt không đều, thống kinh….; đối với can khí xung thịnh gây chứng cáu gắt, hoa mắt chóng mặt, ù tai….
  • Về tiêu hóa: sự sơ tiết của can có ảnh hưởng lớn tới sự thăng giáng của tỳ vị. nếu can khí uất kết hay can khí hoành nghịch có thể thấy các triệu chứng đau cạnh sườn, đau thượng vị, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa chảy gọi là chứng “can tỳ bất hòa” hay “can vi bất hòa”…..

3. Chủ cân, vinh nhuận ra móng tay, móng chân 

  • Cân là cân mạch bao gồm các khớp, gân cơ, phụ trách việc vận động của cơ thể. 
  • Nói can chủ cân là chỉ sự nuôi dưỡng các cân bằng huyết của can (can huyết), can huyết đầy đủ, cân mạch được nuôi dưỡng tốt, vận động tốt; ngược lại can huyết hư, sự nuôi dưỡng kém gây ra các chứng tê bại chân tay, chân tay run, co quắp, teo cơ cứng khớp…; Nếu có sốt cao, huyết dịch hao tổn không dưỡng cân gây ra co giật, tay chân co quắp.
  • Móng chân tay là chỗ thừa ra của cân mạch, nên tình trạng thiếu đủ của can huyết sẽ có những biểu hiện tại đây hồng nhuận hay cứng cáp, nhợt tái hay đổi hình dạng của móng chân tay ( móng tay khum)

4. Khai khiếu ra mắt

  • Tinh khí của ngũ tạng thông qua huyết dịch đều đi lên mắt, nhưng chủ yếu là do tạng can vì can tang huyết và kinh can đi lên mắt
  • Can khí thực do phong nhiệt gây chứng mắt đỏ, sưng, đau, can huyết hư gây ra chứng quáng gà và giảm thị lực. Can phong nội động gây ra miệng méo, khẩu nhãn oa tà…

5. Quan hệ sinh khắc và biểu lý

  • Can mộc sinh tâm hoả, khắc tỳ thổ, và có quan hệ biểu lý với đởm

III. Tạng Tỳ

Tạng tỳ vị trí ở tại trung tiêu,chủ về vận hoá nước và đồ ăn, tỳ thống huyết, tỳ củ cơ nhục và tứ chi, khai khiểu ra miệng, vinh nhuận tại môi.

1. Chủ về vận hoá

a. Vận hoá đồ ăn

  • Là chỉ chức năng tiêu hoá, hấp thu và vận chuyển chất dinh dưỡng của thức ăn. Thức ăn sau khi nhào chộn trong ống tiêu hoá và được tỳ hấp thu chất dinh dưỡng vận chuyển lên phế, phế chuyển chất này vào tâm mạch, để huyết đưa chất này đi nuôi cơ thể ( chao đổi chất)
  • Công năng vận hoá đồ ăn của tỳ mạnh thì gọi là “kiện vận” chỉ sự hấp thu tốt, trái lại, nếu tỳ mất “kiện vận” gây ra các tr/ chứng rối loạn về tiêu hoá như ăn kém, ỉa chảy, mệt mỏi và gầy sút cân 

b. Vận hoá thuỷ thấp

  • Tỳ vận hoá nước đưa nước đến các tổ chức cơ thể để nuôi dưỡng, sau đó chuyển xuống thận và ra bàng quang bài tiết ra ngoài. 
  • Như vậy việc chuyển hoá nước trong cơ thể do sự vận hoá của tỳ phối hợp với sự túc giáng của phế và sự khí hoá của thận, Sự vận hoá thuỷ thấp của tỳ kém sẽ gây ra chứng đàm ẩm nước tràn ra tứ chi gây phù thũng, xuống đại trường gây ỉa chảy, đến khoang bụng thành cổ chướng….

2. Thống huyết

  • Thống huyết có nghĩa là nhiếp huyết, là quản lý và khống chế huyết
  • Sự kiện vận đồ ăn của tỳ là nguồn gốc của khí và huyết, tỳ còn thống huyết; tỳ khí mạnh huyết sẽ đi trong mạch, được khí thúc đẩy đi nuôi dưỡng cơ thể, trái lại khi tỳ khí hư không thống được huyết, huyết ra ngoài gây ra các chứng xuất huyết như rong huyết, đại tiện ra máu, chảy máu cam, chân răng, nôn ra máu,….

3. Chủ cơ nhục

  • Tỳ đem các chất dinh dưỡng của đồ ăn đến nuôi dưỡng cơ nhục, nếu tỳ khí đầy đủ sẽ làm cho cơ nhục rắn chắc, tứ chi linh hoạt; trái lại nếu tỳ khí yếu sẽ làm thịt mềm, trương lực cơ giảm gây tứ chi mệt mỏi, gây chứng bệnh như thoát vị, sa trực tràng, sinh dục, dạ dầy..

4. Khai khiếu ra miệng, vinh nhuận tại môi

  • Là nói về sự ăn uống, khẩu vị. Tỳ mạnh thì muốn ăn và ăn ngon miệng, khí tỳ hư thì chán ăn, miệng nhạt. 
  • Tỳ chủ về cơ nhục, khai khiếu ra miệng và vinh nhuận ra môi, vậy tỳ mạnh thì môi nhuận hồng, tỳ hư thì môi xám, nhạt mầu.

5. Quan hệ sinh khắc 

  • Tỳ thổ sinh phế kim và khắc thận thủy, có quan hệ biểu lý với vị.

IV. Tạng Phế

Phế chủ về hô hấp, phế chủ khí, chủ về bì mao, chủ về chức năng tuyên phát và túc giáng và thông điểu thủy đạo, khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông).

1. Chủ khí, chủ hô hấp

a. Chủ về hô hấp vì

  • Phế là nơi trao đổi khí, hít thanh khí vào và thải trọc khí.

b. Chủ khí vì

  • Phế có liên quan đến tông khí. Tông khí tạo thành bởi khí của đồ ăn do tạng tỳ vận hóa và khí của trời do phế đưa tới, tống khí đưa vào tâm mạch và đi toàn thân dinh dưỡng tổ chức.

2. Chủ tuyên phát và túc giáng

a. Tuyên phát

  • Có nghĩa là thúc đẩy, sự tuyên phát của phế gọi tắt là “tuyên phế”, nghĩa là thúc đẩy khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong thì đi vào các tạng phủ - kinh lạc, bên ngoài thì đi ra bì mao – cơ nhục, không nơi nào là không đến. Khi phế khí không tuyên gây sự ủng trệ thì xuất hiện các chứng như tức ngực, ngạt mũi, khó thở, ho …

b. Túc giáng

  • Có nghĩa là đưa phế khí đi xuống, phế khí đi xuống là thuận, khi phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có các triệu chứng như: khó thở, suyễn tức….

3. Chủ bì mao, thông điểu thủy đạo

a. Bì mao 

  • Là phần ngoài cùng của cơ thể gồm da lông, tuyến mồ hôi (tấu lý), là nơi mà tà khí bên ngoài bắt đầu xân nhập vào cơ thể. Tác dụng tuyên phát của phế là đem chất dinh dưỡng cho bì mao.
  • Vệ khí cũng được tuyên phát ra bì mao hợp sức chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh tại phần biểu thường xuyên thấy xuất hiện các triệu chứng của vệ khí và phế phối hợp với nhau, như bệnh ngoại cảm phong hàn: sợ lạnh, gió, ngạt mũi ho….
  • Nếu phế khí hư yếu, không tuyên phát được khí huyết - tân dịch ra bì mao, khiến cho da khô sáp, lông thưa dẫn đến chức năng bào vệ bì mao bị giảm sút rễ bị nhiễm ngoại tà ( cảm mạo)…

b. Tác dụng thông điều thủy đạo

  • Dựa vào tác dụng tuyên phát và tác giáng, nước trong cơ thể được bài tiết ra bằng đường mồ hôi và hơi thở, đại tiện, chủ yếu bằng đường tiểu tiện. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, tại thận nước tiểu được khí hóa một phần và đưa xuống bàng quang bài tiết ra ngoài. 
  • Trên lâm sàng bệnh phù thũng do phong thủy (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu

4. Chủ về tiếng nói, khai khiếu ra mũi và thông với họng

  • Khai khiếu ra mũi: mũi là nơi thở của phế, mũi có tác dụng thở và ngửi là nhờ vào chức năng của phế khí. Phế khí bình thường thì sự hô hấp điểu hòa, nếu phế khí trở ngại, như ngoài tà xâm nhập thì gây ngạt mũi, chảy nước mũi, không ngửi thấy mùi. Phương pháp chữa bệnh lấy tuyên phế là chính.
  • Phế chủ về tiếng nói: phế chủ tiếng nói và thông với họng. Bệnh ở phế thường thấy xuất hiện các triệu chứng tại họng và tiếng nói như đau họng mất tiếng ..

5. Quan hệ sinh khắc

  • Phế kim sinh thận thủy và khắc can mộc, có quan hệ biểu lý với đại trường.

V. Tạng Thận

Thận chủ về tàng tinh, chủ về cốt tủy, chủ về sinh dục và phát dục, chủ về nạp khí, chủ về thủy, khai khiếu ra tai, tiền âm và hậu âm, vinh nhuận ra tóc

1. Thận tàng tinh, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể

  • Tinh của tiên thiên và tinh của hậu thiên đều được tàng trữ tại thận gọi chung là “thận tinh”, tinh có thể biến thành khí nên gọi là “thận khí”.
  • Thận tinh hay còn gọi thận âm, nguyên âm, chân âm; thận khí gọi là thận dương, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hỏa.
  • Thận tinh và thận khí quyết định sự sinh dục và phát dục của cơ thể từ khi nhỏ cho đến khi về già như mọc răng – trưởng thành sinh con cái (gọi thiên quý thịnh) và lão suy (thiên quý suy).
  • Trong Nội kinh viết: “con gái 7 tuổi thì thiên quý thịnh, răng thay toác dài, 14 tuổi thì thiên quý đến mạch Nhâm thông với mạch Xung, vì vậy lúc đó người con gái thấy kinh.Thường đời người con gái có 7 thiên quý (7X7= 49), lúc đó mạch Nhâm yếu, mạch Xung kém, thiên quý cạn hết, kinh nguyệt không còn, nên thân thể yếu đuối”
Con trai 8 tuổi thận khí thực, tóc tốt, răng thay, 16 tuổi thì thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy, 24 tuổi thận khí điều hòa, thân thể cường tráng mạnh khỏe; 64 tuổi thận khí kém, tóc rụng, răng khô rụng, lục phủ ngũ tạng đều suy yếu, thiên quý cạn nên râu tóc bạc, người mệt mỏi…
  • Thận âm và thận dương phải nương tựa vào nhau, chế ước lẫn nhau giữ thế quân bình về âm dương. Khi thận hư không có hiện tượng hàn hay nhiệt thì gọi thận tinh hư (âm) hay thận khí hư. Nếu có hiên tượng nội nhiệt là do thận âm hư; nếu có hiện tượng ngoại hàn (sợ lạnh, chân tay lạnh) là do thận dương hư.

2. Chủ về khí hóa nước

Thận khí có chức năng khí hóa nước, là đem nước được hấp thu từ đồ ăn thức uống đưa đến cho các tổ chức cơ thể và bài xuất ra ngoài
  • Sự đại tạ (phân bố bài xuất) nước trong cơ thể do 3 tạng phụ trách: tạng tỳ chức năng vận hóa thủy thấp, tạng phế thông điều thủy đạo, thận khí hóa nước; nước vào tỳ được vận hóa hấp thu đưa lên phế, phế túc giáng xuống thận, tại thận được khí hóa chất trong đưa lên phế phân bố nuôi dưỡng toàn thân, chất trọc (cặn bã) được đưa xuống bàng quang thải ra ngoài. 
  • Vậy trên lâm sàng căn cứ vào vị trí trở ngại (bệnh) mà người ta chữa chứng phù thũng ở tỳ, thận hay phế.

3. Chủ về xương tủy – thông với não và vinh nhận ra tóc

  • Tinh được tàng trữ ở thận, tinh sinh tủy, tủy vào trong xương nuôi dưỡng xương, nên thận gọi chủ cốt tủy. Nếu thận hư, làm sự phát dục của cơ thể giảm sút gây hiện tượng chậm mọc răng, chậm biết đi và biết nói, xương cốt mềm yếu…
  • Tủy ở cột sống liền với não, mà thận sinh tủy, nên gọi thận thông với não và không ngừng bổ sung tinh tủy cho não. Thận hư (do tiên thiên) làm não không phát triển nên sinh các chứng: trí tuệ giảm sút, chậm phát triển, tinh thần đần độn, kém thông minh.
  • Tinh sinh huyết, tinh tàng trữ tại thận, mà tóc là sản phẩm thừa ra của huyết, được huyết nuôi dưỡng, vì vậy thận là căn nguyên sinh ra tóc. Sự thịnh suy của thận có quan hệ mật thiết với tóc, như mới sinh thận khí chưa đủ thì tóc mọc thưa thớt, thanh niên thận khí đủ thì tóc tốt và nhuận, người già thận khí suy thì tóc rụng, bạc… Nên nói “ thận vinh nhuận ra tóc”

4. Thận chủ nạp khí

  • Không khí do phế hít vào và được giữ lại ở thận gọi là sự nạp khí của thận. 
  • Nếu thận hư không nạp được phế khí làm phế khí nghịch lên gây ra các chứng ho hen, xuyễn, khó thở, điều trị bằng phương pháp bổ thận nạp khí.

5. Khai khiếu ra tai và tiền âm, hậu âm

  • Chức năng nghe của tai là do thận thận tinh nuôi dưỡng, khi thận hư gây tai ù, tai điếc. Ở người già thận khí và thận tinh suy yếu hay gặp các chứng ù tai, điếc.
  • Tiền âm là nơi bài tiết nước tiểu của bộ phận sinh dục nam và nữ, thận lại chủ về khí hóa và bài tiết nước tiểu và sự sinh dục vậy nên gọi thận chủ về tiền âm. Như thận hư hay gặp chứng đi tiêu nhiều lần ở người già, chứng đái dầm ở trẻ em, chứng di tinh, ra khí hư (thận khí)…
  • Hậu âm là nơi bài tiết phân, do tạng tỳ đảm nhiệm, thuộc về chức năng của tỳ dương. Tỳ dương phụ thuộc cào chức năng khí hóa của thận mới bài tiết phân ra bên ngoài được, vậy nên gọi thận chủ hậu âm. Nếu thận khí hư gặp chứng đại tiện lỏng ở người già…

6. Quan hệ sinh khắc

  • Thận thủy sinh can mộc
  • Thận thủy khắc tâm hỏa
  • Thận thủy biểu lý với bàng quang.

LỤC PHỦ

Phủ là các bộ phận của cơ thể con người có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hóa, hấp thu, chuyển vận và bài tiết các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ: đởm, vị, tiêu trưởng, đại trường, bang quang và tam tiêu. 

1. Đởm

  • Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chất), do can bài tiết ra. Cổ nhân nói: “khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật có chức năng giúp cho việc tiêu hóa thức ăn. Chất mật có vị xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm thấy các chứng như vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.
  • Đởm còn có chức năng về tinh thần chủ về quyết đoán
  • Can và đởm có quan hệ biểu lý: can chủ về mưu lược, đởm chủ về quyết đoán, là cơ sở của lòng dũng cảm, tinh thần dám nghĩ dám làm. Các bệnh thuộc can và đởm hay phối hợp với nhau.

2. Vị Phủ

  • Vị có chức năng chứa năng chứa đựng và làm nhừ thức ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan biểu lý với nhau và đều giúp cho vận hóa đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.
  • Trên lâm sàng công tác chẩn đoán và chữa bệnh đều rất đáng chú trọng vào sự thịnh và suy của tỳ vị. Khí của tỳ vị gọi tắt là “vị khí” để tiên lượng sự tiến triển tốt hay xấu của bệnh tật và dự kiến kết quả công tác chữa bệnh, nên người xưa có nói: “ vị khí là gốc của con người, còn vị khí thì sống, mất vị khí thì chết”. Bảo vệ vị khí là một nguyên tắc chữa bệnh của y học cổ truyền.

3. Tiểu Trường

  • Có chức năng phân thanh và giáng trọc. Thanh (chất trong) là chỉ chất tinh vi của đồ ăn được hấp thụ tại tiểu trường (dinh dưỡng), qua sự vận hóa của tỳ được đem đi nuôi dưỡng toàn thân. Trọc (chất đục) là chất cặn bã được tiểu trường đưa xuống đại trường để bài tiết ra ngoài. Có quan hệ biểu lý với tạng tâm.

4. Đại Trường

  • Đại trường chức năng chứa đựng và bài tiết chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với tạng phế.

5. Bàng Quang

  • Có chức năng chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hóa và phối hợp của tạng thận. Nếu sự khí hóa không tốt gây ra bí tiểu tiện, đái rắt hoặc đái nhiều lần, tiểu tiện không tự chủ. Quan hệ biểu lý với tạng thận

6. Tam Tiêu

  • Bao gồm thượng, trung, hạ tiêu:
Thượng tiêu tính từ miệng trở xuống tâm vị dạ dầy có tạng tâm và phế.
Trung tiêu: từ tâm vị dạ dầy đến môn vị có tạng tỳ và vị phủ.
Hạ tiêu: từ môn vị dạ dầy đến hậu môn có tạng can và thận.

  • Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hóa và sự vận chuyển đồ ăn; ở thượng tiêu thì phế chủ hô hấp, phân bố khí và thức ăn (dinh dưỡng) vào huyết mạch và được tâm khí đưa đi toàn thân. Ở trung tiêu thì tỳ vị vận hóa và hấp thu đồ ăn, đưa nước lên phế; Ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh và trọc, tinh được tàng trữ ở thận, các chất cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại và tiểu tiện.
Ngoài ra ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.

QUAN HỆ GIỮA CÁC TẠNG VÀ CÁC PHỦ

I. Quan hệ giữa tạng với tạng

1. Tâm và Phế

Tâm chủ huyết, phế chủ khí. Tâm và phế phối hợp làm cho khí huyết vận hành, duy trì các hoạt động của cơ thể. Khí thuộc về dương, huyết thuộc về âm, khí thúc đẩy huyết vận hành, huyết đi kéo theo khí, nếu khí không thúc đẩy huyết sẽ ngưng lại gây ứ huyết, nếu không có huyết khí không có chỗ dựa, phân tán mà không thu lại được. 
Trên lâm sàng thường thấy các chứng bệnh:
  • Phế khí hư nhược
Tông khí trong tâm mạch không đầy đủ gây ra tâm phế đều hư, tâm khí không thúc đẩy huyết gây ra ứ huyết làm đau vùng ngực ( hay gặp bệnh xơ vữa mạch vành)
  • Tâm khí hư
Tâm khí không đầy đủ gây huyết ứ làm trở ngại đến phế mạch làm phế khí không tuyên giáng gây chứng hen suyễn (bệnh hen tim)
  • Tâm chủ về hoả
Tâm hỏa vượng ảnh hưởng đến phế âm, một mặt xuất hiện các chứng tâm phiền, mất ngủ …, một mặt xuất hiện các chứng ho, ho ra máu….

2.Tâm và Tỳ

  • Tâm chủ huyết, tỳ sinh huyết. Nếu tỳ khí hư không vận hóa được thì tâm huyết sẽ hư, gây các hiện tượng hồi hộp, hay quên, mất ngủ, sắc mặt xanh, gọi chứng tâm tỳ hư.

3. Tâm và Can

  • Can tàng huyết, tâm chủ huyết. Cả hai tạng phối hợp tạo thành sự tuần hành của khí và huyết. Trên lâm sàng hay xuất hiện các chứng can-tâm âm hư hay can-tâm huyết hư, với các triệu chứng: hoảng hốt, hồi hộp, sắc mặt xanh, hoa mắt, chóng mặt, móng tay chân nhợt không nhuận.
  • Can chủ sơ tiết, tâm chủ thần chí. Hoạt động tâm thần chủ yếu do hai tạng tâm can phụ trách, can và tâm do huyết nuôi dưỡng, khi chúng có bệnh, ngoài các chứng trạng về huyết kể trên còn có các chứng trạng về tinh thần như mất ngủ, hay quên, hồi hộp, sợ hãi, giận giữ….

4. Tâm và Thận

  • Tâm ở trên thuộc hỏa thuộc dương, thận ở dưới thuộc thủy thuộc âm. Hai tạng giao nhau để giữ thế quân bình gọi là “thủy hỏa kỳ tế” hay “tâm thận tương giao”. 
  • Trên lâm sàng nếu thận thủy không đầy đủ, không khống chế được tâm hỏa, gây ra các chứng: hồi hộp, mất ngủ, ngủ mê, miệng lưỡi lở loét, gọi chứng “tâm thận bất giao” hay “âm hư hỏa vượng”.

5. Phế và Tỳ

  • Phế chủ khí, tỳ chủ khí của hậu thiên. Cả hai tạng có liên quan với nhau mật thiết. Chứng khí hư trên lâm sàng thường xuất hiện các chứng: thở ngắn, gấp, nói nhỏ, ngại nói (thuộc phế khí hư);mệt mỏi, ăn kém, ỉa lỏng (thuộc tỳ khí hư)

6. Phế và Thận


  • Phế chủ khí, thận nạp khí. Thận hư không nạp được phế khí gây chứng: ho, hen xuyễn….

7. Can và Tỳ

  • Can chủ sơ tiết, tỳ chủ vận hóa. Sự thăng giáng của tỳ vị có quan hệ đến sự sơ tiết của can. Nếu sự sơ tiết của can bị trở ngại sẽ làm cho sự thăng giáng của tỳ vị trở nên bất thường hay gây các chứng: ngực sườn đầy tức không muốn ăn, dầy bụng, ợ hơi … gặp trong bệnh loét dạ dầy tá tràng, viêm đại tràng…., gọi chứng bệnh “can tỳ bất hòa”

8. Thận và Tỳ 

  • Thận có thận dương hay thận khí, giúp cho tỳ dương vận hóa tốt. Nếu thận dương hư thì tỳ dương cũng hư, gây chứng ỉa chảy ở người già, viêm cầu thận mãn tính (âm thủy)

9. Can và Thận

  • Can tàng huyết, thận tàng tinh. Tinh lại sinh huyết vậy can huyết là do thận tinh sinh ra và nuôi dưỡng. Nếu thận tinh không đầy đủ là cho can huyết giảm sút
  • Thận có thận âm và thận dương, can có can âm và can dương. Nếu thận âm hư không nuôi dưỡng được can âm thì can dương vượng lên gặp trong bệnh cao huyết áp xuất hiện các chứng: nhức đầu, hoa mắt chóng mặt, mặt đỏ….

II. Quan hệ giữa tạng và phủ

1. Tâm và tiểu trường

  • Tâm và tiểu trường có liên quan biểu lý với nhau. Trên ls nếu tâm nhiệt (sốt cao) thường gây ra các chứng: đái ít, đái đỏ và nước tiểu nóng…, phương pháp chữa là thanh tâm lợi niệu

2. Tỳ và vị

  • Tỳ và vị là hai cơ quan giúp cho sự vận hóa đồ ăn. Tỳ chủ về vận hóa và vị thì chủ về thu nạp; tỳ thì ưa táo mà ghét thấp, vị thì ưa thấp ghét táo; tỳ lấy thăng làm thuận và vị thì lấy giáng làm hòa. Như vậy tính chất của tỳ và vị là đối lập nhau, nhưng lại thống nhất với nhau và bổ sung cho nhau để giúp cho việc tiêu hóa được bình thường
  • Khi Tỳ và vị có bệnh, sự thăng giáng có thể đảo ngược: như tỳ khí thăng đưa thanh khí (trong) lên trên thì lại đưa xuống dưới, gọi chứng “tỳ hư hạ hãm” gặp trong các bệnh ỉa chảy, các chứng sa…, băng huyết, rong kinh…Vị đáng lẽ đưa trọc khí (đục) xuống dưới nhưng lại đưa lên trên gây ra các chứng như nôn, nấc, ọe, lợm giọng ….,
  • Tỳ vị có bệnh gây đảo lộn giữa thấp và táo. Tỳ thì ghét thấp nhưng do tỳ hư không vận hóa được thủy thấp là thủy thấp đình lại gây ra các chứng mỏi mệt, phù thũng, ỉa lỏng; vị ghét táo do vị hỏa quá mạnh làm tân dịch bị khô gây nên vị âm hư có các chứng táo bón, loét miệng, chảy máu chân răng…

3. Thận và bàng quang

  • Sự khí hóa ở bàng quang tốt hay xấu đều dựa vào thận khí thịnh hay suy. Nếu thận khí kém sẽ gây chứng di niệu, tiểu tiện không tự chủ, đái dầm….