Ngô thù du và Tiểu hồi hương


Công hiệu khác nhau

Ngô thù du và tiểu hồi hương đều lý khí, đều có công dụng ôn lý, khử hàn, chỉ thống cơ nhục, thích ứng dùng cho hàn ở bên trong chữa các bệnh khí đồi, sán thống, cước khí.
Nhưng xét về bên trong hai vị thuốc đó thì:
Ngô thù du cay, đắng, đại nhiệt, thiên về can kinh kiêm nhập tỳ thận. Tính nó hạ khí giáng khí nghịch từ trên xuống rất nhanh, rất hay tán được kết là thuốc rất mạnh (mãnh tướng) để ôn can, cũng ôn được cả tỳ thận trừ được huyết (!), trục được phong tà, táo được thấp, chỉ được thống.
Tiểu hồi hương cay, ôn. Lực ôn can không bằng ngô thù cho nên chỉ là vị thứ tướng về ôn can mà thôi.
Ôn trung chỉ thống cũng không bằng ngủ thù du. Nhưng lại ốn noãn được hạ nguyên, tán được hàn lãnh ở dạ con lại kiêm khai thông khí ở vị.


Chủ trị khác nhau

1.      Ngô thù du chủ trị quyết âm đầu thống
      Tiểu hồi  hương chủ trị yêu thống

Ngô thù du là yếu dược chữa nhức đầu ở quyết âm can kinh như "Thiên kim dực phương" trị đầu phong, tức dùng ngô thù du cho nước đun, lấy bông sát vào đầu để tìm nguyên nhân bệnh. "Thương bàn luận" bài ngô thù du thang gồm ngô thù du, nhân sâm sinh khương, đại táo trị quyết âm đầu thống, nôn khan, nôn ra nước dãi.
Hồi hương ôn noân hạ nguyên, khí hàn, chỉ thống. Dùng cho bệnh thận hàn yêu thống, bệnh hàn ngưng tụ ở dạ con. Như "Thánh tế tổng lục", bài Hồi hương tử tán (sao hồi hương, sao đào nhân, trích cam thảo, quế chi, thục địa, thạch hộc, đỗ trọng các vị đều tán nhỏ, lúc đói uống với rượu ấm, trị được bệnh thận trướng, yêu phúc thống.
"Chứng trị yếu quyết" Bài Trị thận hư yêu thống, biểu hiện xoay mình bên phải bên trái không được, chỉ thích nằm, gầy yếu. Dùng hồi hương nghiền nhỏ cật lợn bổ ra, lạng mỏng, đừng để đứt rồi rắc thuốc vàaolấy giấy bọc lại, đem nướng chín, dùng rượu ăn. “Y Lâm cải thác” Bài thiểu thúc trục ứ thang gồm có sao tiểu hồi hương, sao can khương. Huyền hồ sách, mộc dược, xuyên khung, quan quế, xích thược, sao ngũ linh chi, bồ hoàng, đương quy để chữa kinh nguyệt không đều kinh thống các chứng.

2.      Ngô thù du chủ trị dương hư, tiết tả
      Tiểu hồi trị âm nang (bí đái) thủy thững

Ngô thù du ôn tỳ noãn thận, trị dương hư hoặc hàn thấp sinh tiết tả. Như "Hiệu trị phụ nhân lương phương”. Bài Tứ thần hoàn gồm sao bổ cốt chỉ, ngô thù du, nhục đậu khấu, ngũ vị tử; trị tỳ thận hư hàn, suốt đêm tiết tả không cầm, hoặc đi tả lâu ngày không giữ được, ăn không tiêu hóa được. “Thánh tế tổng lục” có bài Ngô thù du tán gồm ngô thù du, nhục đậu  khấu, bào khương, cao lương khương, sa nhân, sao thần khúc, bạch truật - Trị chứng trạng tỳ hàn thấp đang tung hoành ở trong gây (chướng bụng), khí cấp ăn cháo cũng bài tiết ngay.
Âm nang (bìu dái) là một bộ phận của can. Hồi hương là thứ tướng để ôn can, sở trường là ôn âm hạ nguvên, lý khí hành trệ. Ôn nên háo được thủy, khí hư hành được tức thi thủy cũng lưu hành theo. Cho nên dùng vào bệnh thủy thũng âm lang. Như “Y tôn kim giám" Bỉ hồ luyện ngũ linh tán gồm chư linh, bạch truật, phục linh, trạch tả, quế chi, tiểu hồi hương, xuyên luyện tử, hành, muối. Cho nước sắc uống, để chữa bệnh bàng quang thủy sán (bệnh sa đì), tiểu tiện không lợi.
Ngoài ra căn cứ vào báo cáo của lâm sàng:
Lấy hồi hương 15 khắc muốn ăn 4,5 khắc cùng sao tiêu, nghiền nhỏ đập một hai qủa trứng vịt rồi cho vào đun làm thành bánh. Trước khi đi ngủ dùng rượu ấm và nước cơm uống thuốc. Để chữa chứng tích nước và bệnh âm nang đầy như da voi sưng sũng.

3.      Ngô thù du chủ trị can khí phạm vị
      Tiểu hồi hương sở trường chữa bệnh hàn sán (sa đi mà lạnh) và đau bụng.

Ngô thù du sơ can giáng nghịch, ôn trung, tán hàn, dùng chữa vị hàn hoặc can khí phạm vị đau nhức, các chứng đau sốt. Như “Thánh huệ phương” trị chứng thực dĩ thôn toan (muốt chua), vị khí hư lãnh. Phải dùng ngô thù du, can khương tán nhỏ, mỗi thang 3 khắc.
"Đan khê tâm pháp” bài tả kim hoàn gồm hoàng liên, ngô thù du, trị can hỏa. Bên trong dạ dầy đau, nuốt chua. "Binh bộ thủ tập phương” trị thổ tâm - Mỗi lần khi dâm bốc lên y như là rót dấm vào đau sót qúa dùng một vị ngô thù du nấu nhừ rồi uống.
Tiểu hồi dương chuyên chữa sán khí (sa đì). Như “Giản tiện đan phương” trị sán khí nhập thận. Hồi hương sao làm 2 bao rồi thay đổi nhau chườm nóng vào chỗ đau (căn làm 2 bao để chườm, nguội bao này thay bao khác chườm nóng liên tục). “Y phương tập giải” Đạo khí thang gồm xuyên luyện tử, mộc hương, hồi hương, ngô thù du, để chữa chứng hàn sán đông thống.

4.      Ngô thù du chữa miệng lở loét, đau răng
Tiểu hồi trị di niệu

Ngô thù du tán mất hỏa, dẫn nhiệt đi xuống dưới, nên dùng chữa chứng miệng ở loét, răng đau. Như “Tần hồ tập giản phương” trị khẩu sang, miệng cam, dùng bột ngô thù du, dùng dấm đổ vào lòng bàn chân, cũng chữa được bệnh đau cuống họng. “Thực liệu bản thảo” chữa răng đau nhức. Dùng ngô thù đun với rượu ngậm và xúc miệng.
Tiểu hồi hương ôn ấm hạ nguyên, dừng chữa hạ nguyên hư hàn, tiểu tiện không thông, hoặc di niệu (đát dắt). Như "Kết lâm trung thảo dược" trị chứng di niệu. Dùng tiểu hồi hương, tang phiêu tiêu cho vào trong bong bóng lợn, sấy khô, nghiền nhỏ để uống. "Thích nguyên phương” Trị thương hàn thoát dương, tiểu tiện không thông, dùng hồi hương tán mạt, lấy nước gừng (dã gừng vắt nước không có nước lã) đổ vào bụng bên. Ngoài ra dùng hồi hương tán mạt cùng với ích nguyên tán để điều trị. Ngoài ra ngô thù du còn chửa chứng huyết tỳ. Thù du hoàn gồm ngô thù du, mộc hương, đương quy, đào nhân, nạo sa (chất amoniac) trị bệnh sản hậu huyết khí không thông. Máu đóng thành cục gây bệnh hại. “Thánh tế tổng lục” Ngô thù du thang chữa bệnh đàn bà kinh nguyệt không thông, trong lòng đau đớn sắp chết. Bài Mộc hương hoàn trị được bệnh tích thành khối lâu ngày huyết khí ngưng trệ. Các phương thuốc này đều phải dùng Ngô thù du. Lấy lẽ rằng nó chữa được chứng huyết tỳ. Nhưng ngô thù du so với hồi hương thì không bằng

Đặc thù sử dụng khác nhau

Kinh nghiệm lâm sàng: Ngô thù du trị bệnh cao huyết áp. Lấy ngô thù du tán nhỏ, mỗi lần 8 đến 30 khắc tầm, đun dấm tẩm đắp vào 2 gan bàn chân trước khi đi ngủ, dùng vải băng lại. Mỗi lần băng như vậy từ 12 đến 24 giờ. Sau khi huyết áp tụt xuống mới bỏ ra. Tự giác mà làm bệnh giảm dần. Nếu chứng huyết áp nhẹ chi làm một lần là khỏi. Nếu nặng làm 2 - 3 tức thì thấp thị.
“Mạnh tẩy thực liệu”. Trị tặc phong khẩu thiên (gió độc vào miệng) không nói được. Dùng ngô thù du 1 cân - khương kỹ 3 cân, rượu trắng 5 cân cho vào đun nhỏ lửa 5 lần đợi cạn còn một cân mang dùng, ngày uống 3 lần. Ra được ít mồ hôi là khỏi.
"Bản thảo cương mục" trị bệnh cảm hàn về mùa đông. Dùng ngô thù du 5 đồng sắc thang uống cho ra mồ hôi."Chứng trị chuẩn thừang" Bài tốc hiệu tán dùng xuyên luyện tử, hồi hương, sao bổ cốt chỉ, mỗi thứ một lạng, tán nhõ, mỗi lần dùng 3 đồng lúc đói uống với rượu để điều trị chữa bệnh yêu thống đau quá không chịu được.
"Tụ chân phương” trị chứng cạnh sườn đau nhói như dùi đâm - Dùng tiểu hồi hương 1 lạng sao, chỉ xác 5 đồng cân sao qua, tán mạt, mỗi lần dùng 2 đồng uống với rượu và muối rất công hiệu.
"Kỳ hiệu lương phương bài tập án tán có: Sao đỗ trọng, hột quýt sao tán mạt. Mỗi lần 2 đồng, không kế lúc nào dùng muối và rượu uống để chữa bệnh yêu thống.
"Vệ sinh bảo giám" Bài bạch hoa tán gồm phác tiêu không cần liều lượng tán mạt, mỗi lần 2 đồng sắc thang với hồi hương, trước khi ăn thi uống. Trị chứng nhiệt ở bàng quang tiểu tiện không thống."Chu thị tập nghiêm phương” trị lão nhân tủy bế. Dung giun đất trắng cổ, hồi hương đã vắt lấy nước uống tất khỏi.