Bổ Thận, bổ Tỳ

VỀ Ý NGHĨA CÓ LÚC BỔ THẬN KHÔNG BẰNG BỔ TỲ, CÓ KHI BỔ TỲ KHÔNG BẰNG BỔ THẬN

Xét lời Tiên triết nói: Bổ Thận không bằng bổ Tỳ, bởi vì cho Tỳ Vỵ là bộ máy tiêu hóa của hậu thiên, là cái bể của thức ăn uống. Năm tạng sáu phủ đều được nhờ sự tưới nhuần của Tỳ Vỵ. Vỵ có bệnh thì 12 kinh đều có bệnh.

Cho nên nói: Muốn xét bệnh nên xét vị khí trước; muốn chữa bệnh nên chiếu cố đến vị khí trước. Vị khí không tổn thương thì mọi bệnh đều không đáng lo, mà chữa cốt chú trọng ở tỳ nữa.

Lại nói: Bổ tỳ không bằng bổ Thận. Bởi vì cho Thận là căn bản của tiên thiên, chân âm chân dương đều ở đấy; là nền tảng của sự sống; là cái gốc sinh ra thân thể; là tác dụng của thần minh; là tổ của tạng phủ; là cội rễ của 12 mạch; là chủ của sự hô hấp; là nguồn của Tam tiêu.

Cho nên nói: Gặp chứng hư thì kíp giữ gìn phương Bắc để bồi bổ cho sinh mạng mà cốt chú trọng ở thận. Đó là tiên triết nhìn sâu vào ý nghĩa của Nội kinh, phát triển lẽ huyền bí để thức tỉnh những kẻ u mê.

Những người thông suốt nghĩa lý thì ít, cố chấp một mặt thì nhiều, chưa tránh khỏi được đằng nọ, mất đằng kia. Kẻ để ý đến Tỳ Vỵ thì chuyên lấy Sâm, Kỳ, Quy, Truật làm tốt; kẻ lưu tâm đến Thủy Hỏa thì chỉ lấy Địa, Thù, Quế, Phụ làm hay, khiến cho cái kỹ thuật cứu sống người khó được hoàn toàn.

Theo ý kiến nông cạn của tôi thì thầy thuốc chữa bệnh thấy có chứng bệnh nào thì dùng loại thuốc ấy. Dù là thuốc đại hàn hay đại nhiệt đều có thể giúp ích cho người. Hai tạng Tỳ và Thận đều có tác dụng cho nguồn sinh hóa và phát sinh từ lúc phôi thai, có khi có thể giao trách nhiệm nặng nề cho Tỳ; có khi có thể quy công riêng cho Thận. Sao không thấy sách nói rằng: Vị mạnh thì Thận đầy đủ mà tinh khí vượng; Vị yếu thì tinh khí bị hại mà dương sự suy kém, lúc đó nên trao trọng trách cho Vị.

Lại nói: Người ta không có một điểm hỏa khí của tiên thiên thì không lấy gì để vận hành tam tiêu cho sự biến hóa được linh diệu, tất cả chỉ là một đống tro tàn, lúc đó hoàn toàn nhờ vào công năng của Thận. Phương Thư nói: Thân thể con người có Tỳ Vỵ cũng như quân đội có kho lương. Kho lương mà cạn muôn quân sẽ tan rã ngay; Tỳ Vỵ đã hỏng thì trăm thứ thuốc cũng không dùng được. Đó là trăm bệnh đều lấy Tỳ Vỵ làm chủ.

Lại nói: Thận hư không thể tiêu hóa được thức ăn, ví như trong nồi đầy gạo nước mà dưới nồi không có lửa, thì liệu cơm có thể chín được không? Hỏi lấy gì mà tưới nhuần, mà bẩm thụ cho tạng phủ. Như thế thì bộ máy tiêu hóa lại phải chú trọng đến thận mà lấy thận làm chủ vậy.

Lại như lúc âm mất dương thoát, chỉ nên dùng Sâm Phụ cho nó hồi lại, nếu Vỵ hư quá nên gia ngay Bạch truật để giữ vững trung khí, chớ có cho lẫn vào một tý âm dược. Dẫu bài Quế Phụ, rốt cục cũng chỉ là vai trò thần sứ mà thôi. Gặp lúc chân dương như sợi tơ sắp đứt thì nên cứu Vị hay nên cứu Thận?

Lại như dùng thuốc khí huyết lâu ngày mà không thấy khí huyết vượng lên, đó là không hiểu đến căn bản và cha mẹ của khí huyết. Chân âm là mẹ của huyết, chân dương là cha của khí. Gốc rễ không vững vàng thì mong gì cành lá tươi tốt được.

Vậy chủ yếu để tìm nguồn gốc, bù vào chỗ trống, thêm vào chỗ thiếu là ở tiên thiên hay là ở hậu thiên. Cho nên tôi nghĩ có lúc bổ Thận không bằng bổ Tỳ, có lúc bổ Tỳ không bằng bổ Thận. Người làm thuốc cần phải tùy cơ, không nên cố chấp về một mặt. Phép bổ hư có chia ra: đại hư và tiểu hư. Trong khi bổ Tỳ nên nghĩ tới Thận, trong lúc bổ Thận nên xem Vị khí. Vì Tỳ Thận đều là gốc của tinh huyết; khi đã sinh ra rồi thì lại nhờ vào sự nuôi dưỡng của cơm nước. Không có tinh huyết thì không lấy gì mà xây dựng cái hình thể, không có cơm nước thì không lấy gì làm cho hình thể được khỏe mạnh.

Vả lại, cái bể chứa cơm nước vốn nhờ có tiên thiên làm chủ động; cái bể của tinh huyết lại phải nhờ đến hậu thiên bồi dưỡng cho. Há có thể bên khinh bên trọng được sao?