Tám mạch lý

Mạch vi

Là loại mạch âm rất nhỏ. Ấn ngón tay vào thấy mạch đập rất nhỏ, xem đi xem lại rất kỹ thì thấy phảng phất như có như không, nên gọi là vi. Mạch này chủ về có bại huyết chảy ra không ngớt, sắc mặt không tươi sáng.

(Mạch vi là âm thổ. Tượng của mạch vi là mùa thu đông, và là nét ảm đạm của phần âm, âm thái quá thì dương bất cập, đó là huyết không được giữ vững là mộc thắng hỏa. Huyết không ngừng thì dùng Hương khung thang (Nhật/6). Phụ tử lý trung thang (Nhật/41)).

CA RẰNG

Ấn vào như có như không

Quanh co máu chảy ở trong tiểu tràng,


Băng lậu bạch đới lại mang,


Không ngừng lậu hạ tủy xương khô dần.


Đó là thận khí mệnh môn suy yếu. Mệnh môn của nam giới để tàng tinh, của nữ giới để giữ dạ con. Chứng băng lậu bạch đới là mệnh môn bị hại. Kinh nguyệt băng xuống quá nhiều gọi là chứng xương khô. Chữa đàn bà thì lấy Phục long can tán (Nhật/9), đó là vì huyết không giữ gìn được, thủy thắng hơn hỏa.

Lại nói: Huyết hao tinh hết, gân xương đều tổn thương, trong xương không có tủy, xương không theo gân, vì gân xương thương tổn mà thành ra thân hình khô khan. Nội kinh nói: âm làm ra hình, nó nuôi huyết. Bổ hư tổn cho chứng này nên dùng Đương quy thược dược thang (Nhật/7), có chỗ nói không bằng dùng Bát vị hoàn (Huyền/1) làm chủ yếu.

Thốn vi là khí thượng xâm,

Quan vi uất khí kết tâm buồn đầy.


Mạch thốn chủ hồng (hỏa), nay thấy mạch vi (thổ) là khí xông ngược lên. Mạch hữu thốn chủ sắc (kim), nay thấy vi là âm thịnh dương suy, hơi bít vào không tới can thận. Nên dùng Cách khí tán (Nhật/66).

Mạch vi ở thượng tiêu; lại nói là phế khí xông lên, nên uống Bổ phế tán (Nhật/25), lại chữa được hạ lao.

Mạch tả quan chủ về huyền (mộc), nay thấy mạch vi (thổ) là thổ vào bộ vị mộc, thì mộc bị uất không thoải mái.

Mạch hữu quan chủ về hoãn (thổ), nay thấy mạch vi (thổ) là hai thổ hợp lại thì sẽ tụ lại mà không tan ra, đều là do cái khí uất kết của thổ tà gây nên mà công kích lên tâm, nên dùng Quân khí tán (Nhật/26) hoặc Phụ tử lý trung thang (Nhật/41).

Xích vi dưới rốn tích đầy

Lạnh mình uống nước đêm ngày kêu rên.


Dưới rốn tích đầy là chứng Bôn đồn. Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy vi (thổ) là thủy thổ hợp lại, âm khí thịnh quá cho nên mình lạnh. Thổ khắc được thủy nên muốn uống nước, kêu rên là tiếng của thận, khi thận bị bệnh thì sinh kêu rên. Mạch hữu xích chủ về tướng hỏa, nay thấy mạch vi (thổ) là hỏa thổ hợp nhau; âm thịnh dương suy, nên uống Nhất khí thang (Tâm đắc/1), Bát vị hoàn (Huyền/1) bội Quế Phụ.




Mạch trầm

Là loại mạch âm, ấn nặng ngón tay thì thấy, nhấc nhẹ tay thì không thấy, phải qua hai mức nhẹ tay và mức trung bình ấn vào tới sâu mới thấy, tựa như sờ vào bông nát, đó là mạch trầm chủ về bệnh khí trướng, chân tay thường lạnh.

Mạch trầm dính sát vào gân cốt; là hiện tượng giá lạnh, dương khí không thư thái, chủ về hư khí xông lên tâm buồn tức nhưng không đau; uống Kiện vỵ lý trung thang (Nhật/40), Kiến trung thang (Nhật/43), chân tay giá lạnh, uống Phụ tử lý trung thang (Nhật/41).

CA RẰNG

Ấn thì có, nhấc như không,

Hư trong tạng phủ, đầy vùng tam tiêu.


Ba nơi khí lạnh chẳng đều


Thông tràng kiện vị cho tiêu mới lành.


Ấn vào thì thấy có, nhấc tay lại chẳng thấy gì là mạch trầm. Tam tiêu là ba bộ: thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Khí đầy ở tam tiêu không vận chuyển được tới tạng phủ, kinh lạc, khí hư thì hàn khí không điều hòa mà 3 bộ vị sinh ra ủng trệ.

Tam tiêu phải nhờ cái khí của thức ăn ở vị để nuôi sống, thông đường ruột là để đẩy chất cũ ra làm mạnh dạ dày để tiếp thu chất mới vào, thì khí tam tiêu mới được đầy khắp mà mạch sẽ không bị trầm nữa. Muốn thông tràng dùng Cục phương ô bạch hoàn (Nhật/67), kiện vỵ cho uống Lý trung thang (Nhật/40).

Thốn trầm lồng ngực có đờm,

Quan trầm hơi ngắn đau lòng khó khăn.


Mạch tả thốn chủ hồng (hỏa), nay thấy trầm (thủy) là thủy hỏa hợp lại, biến thành chứng đàm thực.
Mạch hữu thốn chủ sắc (kim), nay thấy hiện trầm (thủy) là kim thủy hợp lại lưu đọng trong ngực, cũng biến làm đờm, uống Hóa đờm ngọc hồ hoàn (Nhật/57) gia Hùng hoàng, hoặc Bán hạ hoàn (Nhật/30), hoặc Lục quân tử thang (Khôn/12) gia Hoàng kỳ.

Mạch tả quan chủ về huyền (mộc), nay thấy mạch trầm (thủy) là mộc thủy hợp lại, đưa lạnh vào trong xương. Mạch hữu quan chủ về hoãn (thổ), nay hiện mạch trầm (thủy) là thổ hợp với thủy, ở trung tiêu sẽ có lạnh thì đau. Nên uống Chỉ thống hoàn (Nhật/31), hoặc Ngũ quân tử thang gia Quế (Nhật/68).

Xích trầm nặng cả lưng chân,

Đái như nước gạo đã luôn lại nhiều.


Mạch tả xích chủ và khách đều trầm (thủy) là khí hàn có thừa, mạch hữu xích chủ tướng hỏa, nay thấy mạch trầm (thủy) là hỏa thủy hợp lại, thủy khắc hỏa mà thành ra hàn thịnh. Mệnh môn tam tiêu bị bại hoại mà hư, cho nên tiểu tiện đi ra sắc trắng như nước vo gạo. Nên uống Bát vị hoàn (Huyền/1) bội Quế Phụ để chữa. Một phép dùng Hoàng kỳ thang.




Mạch hoãn

Thuộc âm, là nhịp đập thong thả, ấn tay vào thấy đi lại đủng đỉnh chậm chạp; nhưng không chậm chạp bằng mạch trì gọi là mạch hoãn. Chủ về chân tay phiền đầy, hơi thở gấp không yên. Cho uống Chỉ truật thang (Nhật/13) làm chủ.

CA RẰNG

Mạch hoãn gần giống mạch trì,

Thận sinh trệ khí, tai thì ù kêu,


Phong tà tích lại lưng đau


Châm sau phía gáy bệnh hầu tiêu tan.


Bệnh thái dương trúng phong, mạch hoãn, cổ gáy cứng đờ khó quay trở được. Nếu mạch hoãn đại là thuộc tỳ mạch.

Thốn hoãn cổ gáy cứng đờ

Quan hoãn khí kết ắt là bụng đau.


Mạch tả thốn chủ hồng (hỏa), nay thấy hoãn (thổ), hỏa thổ hợp lại trong hỏa có thổ, không bị sợ thủy, thì hỏa lại càng làm dữ mà hại kim. Hỏa quá mạnh thì sinh nhiệt, nhiệt tức sinh phong, phần nhiều vào từ lối huyệt Phong phủ, co nên gân ở cổ gáy co cứng.

Mạch hữu thốn chủ sắc (kim), nay thấy mạch hoãn (thổ) là kim hợp với thổ, kim hư không bình được mộc, phong tà làm thương vệ cho nên co rút gân cổ. Nên uống Trừ thấp thang (Nhật14).

Mạch tả quan chủ huyền (mộc), nay thấy mạch hoãn (thổ) là mộc hợp vào với thổ, can hư thấp thịnh nhiều, phép chữa nên bổ can trừ thấp.

Mạch hữu quan chủ khách đều hoãn (thổ) là tỳ thấp quá nhiều, vỵ cũng bị thương, nên uống Nhất khí thang (Tâm đắc/1) hoặc Kiến trung thang (Nhật/43). Khí kết trong bụng không đuổi ra được uống Ô bạch thang hoặc hoàn (Nhật/67)

Xích hoãn kết lạnh, trưng hà

Đêm nằm mơ quỷ, thấy ma theo người.

Nên uống Ngũ linh tán (Nhật/29) gia Thương truật. Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy hoãn (thổ) là thủy thổ hợp lại, cho nên thành bệnh hàn, vì âm thịnh thì mộng thấy quỷ. Mạch hữu xích chủ về tướng hỏa, nay thấy mạch hoãn (thổ), hỏa thổ hợp lại thành ra dương thổ khí rất thịnh, tướng hỏa không làm được trách nhiệm, hơi lạnh kết lại, hạ nguyên lạnh dữ, cho nên đêm ngày mơ thấy quỷ.




Mạch sắc

Thuộc âm, ấn ngón tay thấy có mạch, nhấc nhẹ tay thì không thấy gì, trước hư sau thực, không có thứ tự là mạch sắc. Chủ về khắp mình đau nhức. Đàn bà có thai thì đau bụng nghén, không có thai thì là có bệnh bại huyết. Mạch sắc là âm kim, là tinh khí đều bị tổn thương.

CA RẰNG

Mạch sắc như dao gọt tre

Đàn ông mạch sắc chủ về thương tinh


Có thai trong dạ chẳng lành,


Không thai huyết bại mà thành hư suy.


Mạch sắc chủ về bệnh bị hao huyết mất tinh, đàn bà có bệnh thai hoặc có chứng xích bạch đới hạ, hoặc bại huyết, nên uống Tứ vật (Nhật/69) của Cục phương Địa hoàng hoàn (Huyền/2), bị hao mất tinh thì uống Long cốt hoàn (Nhật/70) hoặc Lục vị hoàn (Huyền/2) gia các vị cố sáp.

Thốn sắc vị khí tràn lên

Quan sắc bại huyết liên miên chẳng ngừng.


Mạch tả thốn chủ hồng (hỏa), nay thấy mạch sắc (kim) là kim tới lấn hỏa, như thế biết là hỏa không đầy đủ mà kim khinh nhờn, cho nên vị khí tràn lên trên, nên uống Quy tỳ thang (Khôn/15).

Mạch tả quan chủ về mạch huyền (mộc), nay thấy mạch sắc (kim) là kim mộc hợp nhau, bại huyết không ngớt. Mạch hữu quan chủ về mạch hoãn (thổ), nay thấy mạch sắc (kim), kim hợp với thổ là thực tà, kim khí làm tổn thương vạn vật, phép chữa nên tả phế.

Xích sắc lạnh giá đôi chân,

Lạnh mình dưới rốn sôi ran ầm ầm.


Mạch tả xích chủ trầm (thủy) nay hiện mạch sắc (kim) là kim thủy hợp với nhau, âm khí thịnh, dương khí bị suy hư, cho nên huyết lạnh.

Mạch hữu xích chủ tướng hỏa, nay hiện mạch sắc (kim) là hỏa với kim hợp lại, dương khí ở trong hư, âm khí có thừa, cho nên sinh ra lạnh giá, hư và hàn cùng va chạm làm ra chứng sôi bụng. Nên uống Sâm phụ Lý trung thang bội Bạch truật.




Mạch trì

Thuộc âm, ấn nặng ngón tay mới thấy mạch lờ đờ là mạch trì. Chủ về bệnh thận hư không yên ổn. Trì là âm thổ, âm thịnh dương suy thì vinh vệ bị ngừng trệ, làm cho khí bị ngăn trở. Cho nên mỗi hơi thở mạch chỉ đến 3 lần, là mạch trì.

Tâm thận giao thông được với nhau là do có thủy hỏa giúp đỡ nương tựa lẫn nhau. Nay dương bị suy thì tâm khí không xuống giao với thận được, âm khí thịnh thì hợp với thận khí hư mà tạng phủ không vinh nhuận được cho nên tam tiêu bị bế tắc, vinh vệ vướng đọng, sẽ thành bệnh ra mồ hôi lạnh, khớp xương đau, da thịt gày đen, lạnh mình đau bụng, nên uống Lý trung thang. Nếu ra mồ hôi lạnh, chân tay khớp xương đau, nên uống Bổ chính thang (Khôn/54).

CA RẰNG

Mạch trì gặp lúc gian nan

Tới tuần cuối hạ khó toàn được đâu,


Xét xem mùa chẳng hợp nào


Mạch trì chân thủy khô khan đó mà.


Mạch trì là âm, tiết cuối hạ là dương, mạch đó là mạch trái mùa, dương thịnh âm hư, phép chữa nên tả tâm phế, bổ can thận. Tả tâm phế nên uống Đạo xích tán (Nhật/33). Bổ can thận uống Địa hoàng hoàn (Huyền/1), cuối mùa hè thấy mạch trì, là thổ khắc thủy, cho nên bệnh khó khỏi.

Mạch thốn trì thượng tiêu hàn

Quan trì khó uống đau ran trong lòng.


Mạch tả thốn chủ hồng (hỏa), nay thấy trì (thổ) là hỏa thổ hợp lại, âm đến lấn dương.

Mạch hữu thốn chủ sắc (kim), nay thấy mạch trì (thổ) là kim thổ hợp lại, làm thành hàn thấp ở thượng tiêu, cho nên nói là trên vùng thượng vị có hàn, phép chữa nên lấy Quất bì hoàn (Nhật/39), nếu không khỏi cho uống Truật phụ thang (Nhật/19).

Tả quan chủ mạch huyền (mộc), nay thấy mạch trì (thổ) là mộc thổ hợp lại làm cho đau bụng dữ.
Mạch hữu quan chủ về mạch hoãn (thổ), nay thấy mạch trì (thổ) là hai thổ hợp với nhau, âm hàn rất nhiều thì trong bụng đau, nên uống Quế chi gia Phụ tử thang (Nhật/15).

Xích trì nặng trĩu chân lưng

Rét run mền đắp mấy tầng chưa yên.


Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy trì (thổ) là thủy thổ hợp lại; hàn thấp ở hạ tiêu. Mạch hữu xích chủ mạch tướng hỏa, nay thấy mạch trì (thổ) là hỏa thổ hợp lại thì âm thịnh dương suy, nên uống Phụ tử Lý trung thang (Nhật/41).




Mạch phục

Thuộc âm, ấn sát tay vào mà tìm thì tựa như có, nhận định theo hơi thở mà tìm thì hoàn toàn không, tìm cho thật kỹ vẫn thấy ở trong 3 bộ là mạch phục. chủ về khí độc bế tắc cả 3 bộ, chân tay nặng trĩu thường khi có lạnh. Phục là âm mộc. Mạch phục tìm không thấy, ấn nặng tay mới thấy động, nhưng không rời chỗ.

Thốn phục tích khí trong lòng

Quan phục bệnh tý mắt trong quang mờ.


Mạch tả thốn chủ hồng (hỏa) lại thấy phục (mộc) là hỏa và mộc hợp với nhau, âm tới lấn dương, chủ về bệnh khí; mạch hữu thốn chủ sắc (kim), lại thấy phục (mộc), kim và mộc hợp với nhau chủ giận quá mức mà tức ngực, nên dùng Trầm hương hoàn (Nhật/16) mà chữa.

Mạch tả quan chủ huyền (mộc), nay thấy phục (mộc), mộc mộc gặp nhau chủ về bệnh khí tụ ở trung tiêu không tan đi; là có khí phong thấp. Mạch phục cả hai bên tả hữu đều chủ về bệnh lỵ, mắt choáng váng, nên uống Ngũ cách khoan trung tán (Nhật/44).

Xích phục ăn kém đầy no

Bụng đau quằn quại chẳng cho nằm ngồi.


Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy mạch phục (mộc); thủy mộc hợp lại, là phong hàn ở dưới. Mạch hữu xích chủ tướng hỏa, nay thấy mạch phục (mộc) mộc hỏa hợp với nhau, là mộc thịnh khắc thổ. Hai mạch phục đều sinh ra bệnh đau bụng, nên nằm ngồi không yên, nên uống Tứ bạch thang (Nhật/71).




Mạch nhu

Thuộc âm, ấn ngón tay vào tìm tựa như có, lần lần trở lại ấn như trước lại đi là mạch nhu, chủ về sức kém, ngũ tâm phiền nóng, ù tai choáng óc, hạ nguyên rất lạnh, mạch nhu là âm (kim); ngũ tâm là hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân và trước ngực.

CA RẰNG

Ấn thì thấy, nhẹ thì không

Là khô tủy hải và trong Đan điền


Chân tay gân cốt nóng phiền


Hết vòng tạng phủ bệnh truyền sẽ nguy.


Tủy là chủ về thận, chân tay và trong xương nóng là thận đã suy kiệt. Truyền hết vòng là bệnh truyền đến vòng thổ, thổ khắc thủy thì sẽ chết.

Thốn nhu đổ nhiều mồ hôi

Quan nhu khí ít tả tơi tinh thần


Mạch tả thốn hồng (hỏa), nay lại thấy nhu (kim), hỏa với kim hợp thì khí hư không bảo vệ được bên ngoài cho nên nhiều mồ hôi. Mạch hữu thốn chủ sắc (kim), nay lại thấy nhu (kim) là kim vơi kim hợp lại, cũng chủ về bệnh nhiều mồ hôi.

Mạch tả quan huyền (mộc), nay thấy mạch nhu (kim) là mộc và kim hợp với nhau, là mộc không đủ sức để nuôi con (hỏa) và giúp cho mẹ (thủy) mà sinh ra chứng tinh thần tán loạn. Mạch hữu quan chủ hoãn (thổ), nay thấy mạch nhu là thổ hợp với kim; thổ chỉ lo bù đắp cho con mà không phục được thù cho mẹ. Kim có thổ mà không nuôi dưỡng được con (thủy) làm cho tinh thần bị hao tán mất đi. Cách chữa bệnh nên dùng Tứ quân tử thang (Khôn/10) bội Phục linh.

Xích nhu lướt mướt sợ hàn

Thịt xương rời rạc hoàn toàn xa nhau.


Lướt mướt là hiện tượng mềm yếu. Sợ hàn lạnh là vì dương bị thoát mất.

Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy mạch nhu (kim) là thủy kim hợp lại thì tâm không sinh được huyết, can không tàng được huyết, tỳ không thâu giữ được huyết, nên xương thịt mỗi thứ một nơi không giằng giữ lấy nhau được. Mạch hữu xích chủ tướng hỏa, nay thấy nhu (kim), hỏa kim hợp lại, khí bị hao tán, nên xương thịt không giữ gìn được khăng khít cho nhau, đó là loại mạch chết, nên không ghi phép chữa.




Mạch nhược

Thuộc âm, là loại mạch không mạnh, ấn nặng tay tìm kỹ thì tương tự như sờ trong bông nát, nhấc nhẹ tay lại không thấy, ấn nặng tay hơn trước lại không thấy rõ ràng, nhè nhẹ không lên gọi là mạch nhược. Chủ về khí hư ở phần biểu, sau khi sinh phong tà phạm vào cơ thể làm cho mặt sưng lên; mạch nhược là âm kim, biểu là ngoài da.

CA RẰNG

Ấn vào nhè nhẹ không lên

Bởi phong tà lẫn vào bên khí phần,


Mạch này kỵ với tuổi xuân,


Còn như già cả mười phân an toàn.


Mạch tượng như thể sờ vào bông nát, là dương khí yếu, tượng mạch nhỏ như lông, khí huyết tổn thương rất nhiều, nhè nhẹ là sờ vào nhẹ tay thì thấy, ấn nặng vào lại chẳng thấy gì. Người tuổi trẻ mà thấy bệnh này là bệnh rất nặng.

Bởi vì người tuổi trẻ khí lực còn đương phơi phới như mùa xuân, mùa hạ, thì mạch phải hồng đại, hữu lực mới đúng. Nay lại thấy mạch vô lực và không nổi lên được cho nên biết là bệnh nặng, vì mạch không hợp với tuổi trẻ là nghịch. Người tuổi già gặp thấy mạch này thì bệnh dễ khỏi. Vì người già tựa như khí hậu mùa thu mùa đông. Cho nên hễ gặp loại mạch nhỏ nhẹ như vậy là thuận.

Mạch thốn nhược, chứng dương hư,

Quan nhược thì khí lơ thơ, tan tành.


Mạch tả thốn vốn hồng (hỏa), nay thấy nhược (kim), hỏa hợp với kim là tâm khí hư. Mạch hữu thốn vốn là sắc (kim), nay lại nhược (kim), kim gặp kim, kim khí nhiều nên dương hư, nên uống Ngũ bổ hoàn (Nhật/56), Tứ nghịch thang (Nhật/72).

Mạch tả quan chủ huyền (mộc), nay thấy mạch nhược (kim), mộc hợp với kim với nhau là can khí hư.

Mạch hữu quan chủ hoãn (thổ), nay thấy mạch nhược (kim), thổ với kim hợp lại, thì khí hạ tản mát, nên uống Ích hoàng tán (Nhật/55) Bình vị tán (Nhật/34), lựa chọn mà dùng hai phương đó đều chủ trị cho mạch bên hữu nhược.

Mạch xích nhược, tuyệt âm rành

Ngoài da đau buốt, tan tành khí dương.


Mạch tả xích chủ trầm (thủy), nay thấy mạch nhược (kim) là thủy hợp với kim; kim yếu sinh được thủy, nên thận khí ở trong hết mà dương khí chạy tán loạn ra ngoài.

Mạch hữu xích chủ tướng hỏa, nay thấy mạch nhược (kim) hỏa hợp với kim, là dương thịnh âm hư tuyệt; đau buốt ở ngoài da, là do mạch tam tiêu chỉ còn dương lẻ loi không thể giữ gìn được một mình, nên lìa thoát khỏi vị trí, không có thể chữa được.