Bổ-Tả

Những vị thuốc tính ôn, giống như thời tiết mùa xuân cho nên nó sinh hóa được vạn vật. Thuốc tính lương (mát) ví như thời tiết mùa thu, nó làm cho vạn vật se sắt. Thuốc tính hàn (lạnh) ví như thời tiết mùa đông, cho nên sát phạt vạn vật. Nguyên khí suy kém lấy những thuốc cam ôn để bổ, khác nào như mùa xuân tới thì khí sinh cơ đầy dẫy chứa chan
  1. Nguyên khí suy kém mà đến nỗi hư quá, như vậy là hỏa hư có kèm theo hàn tà, cho bổ bằng loại thuốc tân nhiệt, như gặp thời tiết nóng nực sinh khí thoải mái. Khí nóng có thừa dùng thuốc cam lương để thanh giải, như mùa thu gió mát thổi tới thì nóng bức tiêu tan, tà khí thịnh quá thì phải ức chế, nên dùng những vị thuốc khổ hàn để tả, như gặp thời tiết mùa đông giá lạnh thì dương khí sẽ ẩn nấp. Cho nên dùng những loại thuốc ôn nhiệt, đều là thuốc để bổ cho chứng hư. Loại thuốc hàn lương là loại thuốc tả các chứng thực. 
  2. Nhưng nguyên khí đã bị hư thì chỉ có khí heo hắt của mùa thu, mùa đông, mà ít có cơ sinh trưởng của mùa xuân, mùa hạ. Đã hư thì không tránh khỏi có nhiệt, nếu không xét hư hay thực, mà đem cho uống thuốc hàn lương, như vậy thì bệnh đã làm cho hao mòn rồi thuốc lại làm hao mòn thêm, liệu bệnh nhân có thể sống được lâu chăng? 
  • Cho nên nói không có dương thì âm không dựa vào đâu mà sinh, không có âm thì dương không lấy gì hóa được. Bởi vì vạn vật sinh ra không phải do âm mà do ở dương, tựa như mùa xuân mùa hạ thì nảy nở, mùa thu mùa đông thì hao mòn, khác nào hoa cỏ có ánh mặt trời thì sẽ tươi tốt, ở chỗ im rợp thì dễ bị héo tàn. 
  • Nội kinh nói: “Lẽ cốt yếu của âm dương là cần được dương khí kín đáo thì mới bền vững, mà phải nên chú trọng về dương”. Lại nói: “Dương khí ví như trời và mặt trời, nếu bị hao tổn thì sẽ bớt tuổi thọ mà không khỏe mạnh”. Thánh hiền đời xưa ai cũng đều ưa thích dương mà không ưa thích âm. Tức như Chu Đan Khê chủ trương bổ âm, cũng đã nói: “Thực hỏa nên tả bằng những loại thuốc như Hoàng cầm, Hoàng liên, hư hỏa nên bổ bằng những loại thuốc như Nhân sâm, Hoàng kỳ”.
Người đời nay chỉ biết có hỏa mà không biết chia ra hư hay thực, thích dùng những vị hàn lương thì có khác gì đem mùa thu mùa đông làm ra thời tiết sinh trưởng, mùa xuân mùa hạ lại làm ra thời tiết sát phạt, như vậy chẳng làm giảm tuổi thọ và mất sức khỏe của người hay sao? 
  • Thấy có bệnh nhiệt, nên xét căn nguyên của nó, nếu đúng là hỏa thực thì lấy vị khổ hàn, hàm hàn để tả, nếu là hư thì dùng vị cam hàn, toan hàn để thu nhiếp
  • Thấy bệnh hàn cũng phải xét rõ bệnh nguyên, nếu là hàn từ ngoài vào, thì lấy những thuốc tân ôn, tân nhiệt để giải tán, hàn do ở trong, thì lấy vị cam ôn để bổ ích, thêm vào những vị tân ôn, tân nhiệt để giúp sức. 
  • Nội kinh nói: “Ngũ tạng tàng trữ tinh mà không tả”, cho nên nói tuy đầy nhưng không đầy chặt, (thực) vì vậy chỉ có bổ mà không nên tả đó là lẽ tất nhiên. Khi tạng bị phải tà khí, hễ tả hết tà thì thôi, đó là tả tà khí chứ không phải tả tạng khí, khi tạng không có tà khí chớ nên xâm phạm vào. 
  • Cho nên nói tà khí quá thịnh hơn khí bản tạng thì đem phép tả làm bổ, đó là trong phép tả có ngụ ý bổ, khi bản tạng suy yếu quá thì đem phép bổ để làm phép tả, cũng là ý nghĩa trong bổ có tả. 
(Xem thêm : Công Bổ)
Người ta cho rằng không có phép bổ can, như thế là sai. Lục phủ là để truyền dẫn những chất tiêu hóa và chất cặn bã, cho nên nó chứa chất vào nhưng không thể đầy chặt. Tà ở ngoài lấn vào sinh bệnh thì phải nên công phạt, đúng bệnh bớt rồi thì thôi, không nên uống hết cả thang. Bệnh ở kinh thì trị ở kinh, bệnh ở lạc thì nên công ở lạc, kinh đi thẳng, lạc đi ngang, hai cái đó có liên hệ lẫn nhau.
  • Bệnh ở phần khí thì chữa khí, nếu hư thì bổ dưỡng, thực thì làm cho điều hòa.
  • Bệnh ở phần huyết thì chữa vào huyết, hư thì bổ cho tâm, can, tỳ; thực thì nhiệt là ứ, nếu nhiệt thì phải thanh giải, ứ thì cần làm cho lưu hành. Vì bệnh ở khí mà lụy cập đến huyết thì trị khí trước. Bệnh ở huyết mà lụy cập đến khí thì chữa huyết trước
  • Ngũ tạng đều có tinh, khi tinh ở ngũ tạng đầy đủ rồi mới truyền được về thận, thận chỉ là cái nơi tụ tập chứa đựng. Cho nên Nội kinh nói: “Ngũ tạng có đầy đủ thì mới tả ra được”. Nếu tinh ở trong một tạng nào không được đầy đủ thì tinh khí do thức ăn hàng ngày sinh ra chỉ đủ cung cấp cho bản tạng ấy thôi, làm gì còn thừa mà truyền sang thận được. Cho nên phép bổ cần phải điều chỉnh cho tạng khí điều hòa, thì cái nguồn sinh hóa cho thận sẽ dồi dào. Nội kinh nói: “Hình vóc suy yếu thì bổ bằng khí, tinh suy yếu thì bổ bằng vị”, khí là chất trong và nhẹ tựa như khí trời, vị là chất nặng và đục tựa như đất.
  • Bổ nghĩa là xem trong cơ thể bị sút kém về cái gì thì ta bổ cho cái đó, tức là bồi bổ vào chỗ thiếu thốn
  • Khí là nói những vị thuốc trong và nhẹ và vị nó nhạt như Hoài sơn, Phục linh.
  • Vị là những vị thuốc nặng đục mà vị đượm như Câu kỷ, Thục địa. Thế mà tại sao người ta muốn bổ mạnh cho thận, thì dùng những vị như Ngưu tất, Đỗ trọng để dẫn khí thuốc xuống, còn e rằng chưa đủ sức, mà trở lại gia Cam thảo để hòa hoãn ở trung tiêu làm cho sức thuốc không dẫn xuống được, lại trệ đọng ở trung quản?
  • Hư thì nên bổ, thực thì nên tả: Bổ cho chứng hư nhiều thì phải cần sức thuốc mạnh và tính ôn, nếu hòa giải hoãn thì không công hiệu, công phạt chứng bệnh rất thực thì phải cần mạnh và mau, chậm thì sẽ sinh biến chứng. Hư ít thì dùng bảy phần bổ ba phần công, là mở ra một đường để đuổi tà. Bệnh hơi thực thì dùng bảy phần công ba phần bổ, để phòng sự bất trắc có thể xảy ra