Dựa vào mạch để cho thuốc

(Trước bộ quan là thốn khẩu thuộc dương, sau bộ quan thuộc âm, lấy dưới một tí).

Phần dương mạch huyền là nhức đầu, mạch ở thốn phù mà huyền, là phong tà ở biểu. Nếu hai mạch thốn phù sác huyền và nhức đầu nên dùng Tiểu sài hồ thang (Nhật/37) gia Khương hoạt, Bạch thược sống, Mẫu đơn.



Phần âm mạch huyền là đau bụng (như hai bộ xích trầm mà huyền là phong tà ở lý, đau gò bụng dưới) nên dùng Lý trung thang (Nhật/41) hoặc Phụ tử Lý trung thang, hoặc Tiểu kiến trung thang (Nhật/42).

Phần dương mạch sác, thì nôn mửa kiêm có chứng nhức đầu (hai bộ xích phù sác hoặc bộ thốn bên trái hồng sác là nhiệt tà ở lý), nên uống Thanh tâm lương huyết thang (Nhật/18) hoặc Toàn chân nhất khí thang (Tâm đắc/1). Như mạch thịnh quá gia bội Mạch môn. Phần âm mạch vi, là bệnh tả (hai mạch xích trầm vi là hàn tà ở lý), nên dùng Phụ tử Lý trung thang (Nhật/41); hoặc Nhị truật thang (Nhật/41) gia Bạch linh, Phụ tử, Can khương.


Phần dương mạch thực, là trên mặt có phong, mặt đỏ bừng (mạch thốn bên trái thực hồng hoặc sác là tâm hỏa vượng, tâm hỏa vượng thì nóng, nóng thì sinh phong cho nên biết rằng có phong nhiệt ở ngoài biểu). Nên uống Thanh tâm liên tử thang (Nhật/3) hoặc Lục vị thang (Huyền/2) gia Liên nhục, Đăng tâm bội Mẫu đơn; hoặc Toàn chân nhất khí thang (Tâm đắc/1).

Phần âm mạch vi, thì ra mồ hôi trộm kiêm có chứng khí lực mỏi mệt (Hai bộ xích mạch trầm vi là dương khí không được bền chặt, hàn tà ở phần lý, tân dịch tiết ra ngoài, cho nên khi ngủ đổ mồ hôi trộm, thức dậy thì hết mồ hôi). Nên dùng Thu hãn sinh dương thang (Nhật/4) hoặc Sâm phụ thang (Nhật/5) gia Ngũ vị hoặc Hoàng kỳ sao mật 5 đồng cân, Ngũ vị 15 hạt và Phụ tử.


Phần dương mạch thực đại, hoạt thì cứng lưỡi. (Hai mạch thốn mạch phù thực đại và hoạt là hỏa tà của tâm rất nóng. Tâm khí thông ra ngoài đầu lưỡi, cho nên có thể biết được sinh cứng lưỡi). Nên uống Thanh tâm lương huyết thang (Nhật/18); hoặc Tứ vật thang (Khôn/21) bỏ Xuyên khung, gia Liên nhục, Huyền sâm. Phần âm sác là tỳ nhiệt và thối miệng (Hai mạch xích trầm sác, là tỳ tạng nhiệt, cho nên biết là miệng có hơi thối). Nên uống Bổ trung thang (Khôn/1) gia Hoàng cầm, Liên nhục.


Phần dương mạch vi, phù, nhược, là tâm hàn. (Hai bộ thốn phù vi là biểu khí hư mà tâm hỏa suy kém) nên uống Quy tỳ thang (Khôn/15) gia Phụ tử.

Phần âm mạch hoạt là tỳ yếu, đi ỉa sống phân. (Hai mạch xích trầm, hoạt, là hàn tà ở phần lý, ăn vào lại ỉa sống phân mà tỳ kinh thì bị bệnh). Nên dùng Tam bạch thang (Khôn/19) gia Phụ tử, Phá cố, Thỏ ty, hoặc Bát vị (Huyền/1) bỏ Mẫu đơn, gia Phá cố, Thỏ ty, Hoài sơn, khuấy hồ để làm hoàn.