Mạch Tâm xuất hiện ở ba bộ (Sinh mạch)

Mạch 3 bộ đều sác là nhiệt ở tâm, trên lưỡi mọc mụn, ngoài môi nứt nẻ (Sác là hiện mạch của hỏa. Ba bộ đều sác là tạng tâm bị tà nhiệt nóng quá làm cho tâm bị nóng). Nên uống Thanh tâm liên tử thang. Miệng lưỡi mọc mụn, nên uống Toàn chân nhất khí thang  gia Liên nhục, bội Mạch môn; hoặc Lục vị thang gia Ngưu tất, Ngũ vị, Mạch môn, Liên nhục.

Nói mê cuồng, nhắm mắt thấy quỉ, khát nước uống nhiều. Tiếng nói là tiếng của tâm, quỉ là âm khí của tâm, tâm nóng quá thì miệng sinh nói nhảm nói cuồng, nên uống Đạo xích tán, chữa Tiêu khát, nên uống Toàn chân nhất khí thang bội Mạch môn; hoặc Lục vị địa hoàng thang gia Ngũ vị, Mạch môn, Ngưu tất.

Mạch tâm


Tâm mạch khâu là dương khí bị uất sinh ra nói cuồng hoặc thường sinh ra đi lỵ và thổ ra huyết.

Mạch khâu chủ về huyết, huyết không được lưu lợi thì khí không được thông, cho nên dương bị uất, sinh nói cuồng. Mạch khâu ở bộ tâm là tích huyết ở trong lồng ngực; khí xông lên thì thổ, khí hãm xuống thì đi lỵ, thành ra vừa lỵ vừa thổ huyết.

Tâm đi mạch khâu nên uống: Đương quy 1 lạng, Cam thảo sống 5 phân, Hồng hoa, Tô mộc đều 1 đồng. Chứng huyết lỵ nên dùng Đương quy Thược dược thang gia Hòe hoa và Can khương sao đen. Nếu có cả chứng đi lỵ ra máu và chứng thổ huyết thì cho uống Bồi thổ cố trung thang gia Can khương sao đen.

Mạch tâm tràn qua bộ quan (dật quan) thì đau xương, lòng buồn bực vật vã, lại kiêm có chứng mặt đỏ bừng. Mạch dật quan là mạch đi tràn qua bộ quan lên mãi tới trấy tay, nóng bừng bừng đỏ dữ, xương đau, tâm buồn bực, nên bổ huyết làm mát tâm hỏa. Đầu mặt đỏ, nên uống Mạch vị địa hoàng thang bội Thục địa.

Mạch đại thực là vì có phong, mặt đỏ bừng sinh ra khô táo đau nhức. Bởi vì tâm có nhiệt, nhiệt thì sinh phong, cho nên biết rằng nó sinh chứng mặt đỏ mà trong mình có phong; có phong có nhiệt nên sinh bệnh táo, mặt đỏ bừng tức là đỏ gay, có phong có nhiệt mặt đỏ bừng nên uống Lục vị thang gia Sinh địa bội Mẫu đơn.

Mạch tâm vi là hàn, tâm bị hoảng sợ, có chứng nóng rét (mạch tâm nên phù đại mà tán, lúc suy kém thì hiện mạch vi). Mạch vi chủ về hàn và hoảng sợ, bệnh nóng lạnh nên uống Dưỡng vinh Quy tỳ thang hoặc Thập toàn bổ chính thang.

Mạch cấp thì trong tiểu tràng đau không thông (Thông Tân Tử nói: “Mạch sác quá là cấp, cấp tức là khí cấp. Tiểu tràng là phủ của tâm. Mạch tâm cấp là chủ về khí tiểu tràng cấp bách đau nhức, hai đường tiện không thông lợi”). Nếu tiểu tràng đau cấp, nên uống Tiểu kiến trung thang gia Trầm hương, Ô dược. Nếu trong ruột đau gò, đại tiểu tiện không thông lợi, nên uống Ngũ linh tán gia Mộc thông, Chỉ xác, Binh lang và chút ít Đại hoàng.

Mạch thực đại kiêm có mạch hoạt, lưỡi trơn, tâm thường bị kinh sợ, nói năng ngượng ngịu khó khăn. Nếu lưỡi trơn nói năng khó khăn thì nên uống Thanh tâm liên tử thang, hoặc Lục vị thang gia Liên nhục bội Mẫu đơn.

Chỉ có mạch hoạt là tâm nhiệt chứ không có bệnh (Khiết Cổ nói: Đó là tà). Nên uống Tứ vật thang gia Liên nhục, Đăng tâm.

Mạch tâm sắc không có lực, biếng nói (vì bản thân nó không đầy đủ cho nên vợ tới khắc chồng). Nên uống Quy tỳ thang bỏ Mộc hương.

Mạch tâm trầm khẩn là đau lạnh ở trong (gọi là tặc tà) nên uống Quy tỳ thang bội Quế, uống xen kẽ với Ngũ linh tán hoặc Ô dược Trầm hương hoàn.

Mạch tâm huyền trường là trong tâm khó chịu và có chứng tâm huyền.

(Đoạn này là nói tiếp với đoạn trầm khẩn) trong tâm đau lạnh mà huyền, trường là can tà vào tâm, làm cho tâm khó chịu và tâm huyền, đều là trỏ vào tặc tà của thủy đến khắc hỏa, cho nên chứng tâm huyền tựa như người bệnh đói. Linh khu nói: Thận kinh động thì bệnh, như mạch huyền khẩn có đới trầm là thận thủy khắc tâm hỏa, bộ tâm thấy mạch huyền là mẹ đến hại con, nên cho uống Quy tỳ thang gia Mẫu đơn, Bạch thược.