Mạch Phế xuất hiện ở ba bộ

Mạch ba bộ đều phù là phế tạng có phong, hay chảy nước mũi và nhổ ra đờm đặc.

(Ba bộ thốn, quan, xích đều phù, là hỏa đến khắc kim, nên uống Sâm tô ẩm.)

Nóng dữ, sợ lạnh, đau ngoài da thịt, trên trán khô, hai mắt đau chảy nước mắt.

(Phong tà chạm vào phế thì sợ lạnh, nóng dữ. Phong thắng được thấp thành ra bệnh táo nhiệt, cho nên đau ngoài da. Phế hệ chằng ở trán, khi phế bị bệnh thì trán khô. Kim bị suy không chế được mộc và hỏa đều thịnh, cho nên hai mắt đau nhức, chảy nước. Nên uống Tiêu giao tán hoặc Tiểu sài hồ thang.

Mạch phế


Mạch phế phù và thực là trong họng khô đau, đại tiện táo khó đi, mũi chẳng ngửi thấy mùi gì (Đường lạc của phế qua cuống họng, đại tràng là phủ; mạch của nó đổ lên mũi. Mạch phù và thực là dương kết cho nên có bệnh này. Nên uống Sài hồ thang.

Mạch thực đại kiêm có hoạt, thì khô lông chảy nước mũi đặc và trong họng khô rộp, nên phải tả trừ hỏa. (Mùa hè chẩn thấy loại mạch này ở bộ phế, và có chứng bệnh như vậy là trong kim có hỏa, kim bị hỏa khắc nên mất sức điều tiết; phải uống Cam cát thang gia Tang bì, Mạch môn, Hoàng cầm).

Mạch trầm khẩn kiêm hoạt là có chứng ho (Phế bộ thấy 3 loại mạch này là có hàn, có phong và đàm cho nên sinh ho, nên uống Lục quân tử thang.

Mạch tràn lên đến trấy tay là trong ngực đầy tức, khí bị tiết ra, đại tràng sôi réo. (Mạch phế ở vào bộ thốn tay phải. Phù đại thì mạch tràn lên tới trấy tay, bởi vì khí không thuần nên trong ngực đầy tức, khí bị hãm xuống dưới; cho nên khí tiết ra mà đại tràng thường hay sôi réo. Nên uống Lục quân tử thang gia Thương truật).

Mạch hơi phù kiêm có mạch tán là mạch bản chất của phế. (Như thế là mạch bình thường của phế, tuy phế có bệnh không cần chữa cũng khỏi).

Mạch huyền trong ruột lạnh kết lại. (Mạch phế mà huyền là kim yếu bị mộc lấn tràn, bởi vì đại tràng lạnh mà thành ra kết. Phép chữa nên dùng loại thuốc ôn thì sẽ thông).

Mạch khâu thì không có chứng đau dữ. (Phế chủ khí, mạch khâu chủ huyết, kinh đó nhiều khí ít huyết, khí hành huyết cũng hành, cho nên không có chứng đau dữ dội bất thường).

Mạch trầm tế lại kiêm hoạt là có chứng cốt chưng (nóng âm ỉ trong xương), lông da đều khô ráp và bệnh nóng lạnh. Mạch phế phù sác mà đoản, là bên ngoài, ứng hợp với lông da, nay lại hiện trầm tế mà hoạt biết là bệnh ở trong xương, nóng ở trong mà không tiết được ra ngoài. Nóng ở trong, lạnh ở ngoài cho nên trong xương thì nóng, ngoài da thì khô, khi nóng khi rét. Mạch phế hiện trầm tế mà hoạt sác nóng âm ỉ trong xương nên uống Tứ vật thang gia Địa cốt bì. Nếu mạch trầm tế mà không sác, nên uống Tứ quân thang gia Hoàng kỳ, Hoàng cầm.