Ích chí nhân cùng Bổ cốt chi


Công hiệu khác nhau

             Ích chí nhân cùng bổ cốt chi đều bổ thận tráng dương, ôn tỳ chỉ tả, cố tinh xúc tuyền,  dùng chữa tỳ, thận dương hư. Nhưng ích chí nhân ôn bô tỳ dương làm chủ yếu, ôn tỳ tán hàn thắng hơn là ấm thận.
         Mà bổ cốt chi ôn bố tỳ dương làm chủ yếu. bổ tỳ tráng dương thắng hơn là ôn tỳ.


 Chủ trị khác nhau

1  - Ích chí nhân chủ trị di tinh, dương nuy, di niệu băng lậu.

            Bổ cốt chi chủ trị thương tích bị đánh
             Ích chí nhân bổ thận, tráng dương, cố tính xúc tuyền. Dùng chữa thận dương hư là nguyên nhân sinh dương nuy, di tinh, di niệu, băng lậu các chứng.
             Nếu "Thế y đắc hiệu phương" Tâm tiên hoàn (ích chí nhân, ô dược, sơn dược) trị mộng tiết tinh.
            "Phụ nhân lương phương" Xúc tuyền hoàn (ô dược, ích chí nhân, trị phù khí hư hàn, tiểu tiện tần xác, hoặc di niệu không khỏi.
             "Kinh hiệu sản thất" trị phụ nhân băng trung tức thì dùng ích chí nhân sao, nghiền nhỏ, dùng nước nuốt uống 1 đồng.
             Bổ cốt chi chẳng những chữa dương hư, dẫn đến dương nuy, di tinh, di niệu, băng lậu mà còn ôn bổ tý dương, cường kiện cân cố,t mà còn chữa cả vết thương bị đánh.
             Như "Nhân bị trực chỉ phương" trị đánh ngã lưng, sườn bị đau. huyết ứ. ngưng trệ, phải dùng phá cố chỉ, hồi hương, lạt quế. Tán mạt, dùng rượu nóng mỗi lần phục 2 đồng.
            "Kinh nghiệm hậu phương" trị yêu thống. Dùng phá cố chỉ tán mạt dùng rượu hơi nóng uống 3 đồng.
            "Thương khoa đại thành" Bổ thận dưỡng huyết thang (thục địa hoàng, bổ cốt chi, thỏ ty tử, đan sâm, nguyên uất tử, câu kỷ tử, đương quy, đỗ trọng, bạch thược dược, sơn thù du, nhục thung dung, hồng hoa, bạch đào nhục. Trị can thận hư tổn, dẫn đến khớp xương lỏng lẻo linh như thoát vị.

  2 -     Ích chỉ nhân chủ trúng hàn, phúc thống, thổ tả.

           Bổ cốt chi chủ cửu tả, cửu lỵ.
           Ích chí nhân ôn bổ tỳ dương thắng hơn là ôn bổ thận dương, cho nên chủ trị trong bụng lạnh đau, vừa thổ, vừa tả.
           Như "Cục phương”  Ích chí tán (suyên ô, ích chí, can khương, thanh bì, sinh khương, táo) trị thương hàn âm hư, tâm, phúc bĩ mãn - ẩu thổ tiết lợi, chân tay lạnh đá, đến nỗi lạnh khí, bôn sung, làm cho cạnh sườn, rốn, bụng trướng - đau như vặn.
            Bổ cốt chi bổ thận trợ dương, ôn tỳ cố sáp, dùng chữa tỳ, thận dương hư dẫn đến tả lâu ngày, lỵ lâu ngày các chứng.
            Như "Hiệu chú phụ nhân lương phương'’ Trí thân hoàn (sao bổ cốt chi, ngô thù du, nhục đậu khấu, ngũ vị tử) trị tỳ thận hư hàn, cứ đến canh năm thì tiết tả, hoặc là bị tả lâu ngày.

3  -   Ích chí nhân chủ trị trung tiêu hư hàn, có lúc nhổ ra nước trong. Bổ cốt chi chủ trị hàn suyễn, ho.

            Ích chí nhân ôn thận, noãn tỳ, cho nên chủ trị trung tiêu hư hàn, tỳ mất khả năng tiếp thống nên dẫn đến nhổ ra nước dãi trong. Thường dùng đẳng sâm, vân linh, trần bì, bán hạ phối hợp.
           Bổ cốt chi bổ thận trợ dương, kiêm nạp khí. Chủ trị thận dương hư, không nạp khí, nên sinh hư hàn khái suyễn. Thường dùng nhân sâm, bồ đào, cáp giới, ngũ vị phối hợp.

Đặc thù sử trị khác nhau

           "Anh đồng bách vấn" Phân thanh ẩm: ích chí nhân, tỳ giải, xương bồ, ô dược  tán mạt - dùng một ít muối làm thang, lúc đói uống, hoặc cho đăng tâm làm thang sắc uống. Trị tiểu tiện lâm lịch, rồi đến xích, bạch trọc.
            Lâm sàng báo, lấy bổ cốt chi, xích thạch chi chế thành từng miếng để dùng. Trị liệu tử cung ra huyết. Hiện đã xét hơn 300 ca, chỉ huyết hiệu quả đạt 90% trở lên. Chế tễ và dụng pháp.
            Dùng bổ cốt chi làm thành cao (1:4) cùng xích thạch chi chế thành phiến - Khi thấy kinh nguyệt có khuynh hướng tăng nhiều thì mới bắt đầu dùng thuốc chữa. Mỗi lần 6 phiến (hợp 1 đồng) mỗi ngày 3 lần, điều trị luôn 3 ngày, tất yếu thời gian có thể đài hơn.