Sơn đậu căn cùng Bản lam căn


Công hiệu khác nhau

           Sơn đậu căn và bản lan căn đều thanh nhiệt, giải độc lợi yết hầu; hay dùng chữa bệnh đau yết hầu, họng.
           Nhưng bản lan căn đắng, hàn, thiên vào tâm phế, vị kinh, sở trường giải độc, lương huyết cũng hay thanh nhiệt, tán biểu.
           Sơn đậu cân đắng, hàn, thiên vào tâm, phế, đại tràng kinh, bên trên thanh tâm phế nhiệt, dưới thì giáng hạ, hòa ở vị tràng, sở trường tán kết kiêm táo thấp sát trùng.


  Chủ trị khác nhau

1  -    Sơn đậu căn chủ trị đau yết hầu, ho, thấu
           Bản lan căn chủ trị bệnh nhiệt phát ban

            Sơn đậu căn, bên trên thì thanh nhiệt ở tâm phế, giải độc, lợi yết hầu; Dùng chữa các chứng thấp nhiệt tà độc sinh ra các bệnh đau yết hầu, sưng, khái thấu.
            Như "ngoại khoa tập nghiệm phương » - trị bệnh yết hầu bị phong độc, đau cấp tính, nghiến chặt răng (nha quan khẩu bế) bệnh tình rất khẩn trương, nước cháo không nuốt được. Dùng sơn đậu căn, bạch thược hai vị bằng nhau sắc nước ngậm vào mồm cho chôi dần xuống cuống họng.
           Bản lan căn thanh nhiệt, lương huyết, dùng chữa chứng nhiệt thịnh, động huyết, phát ban. Thường hay dùng phối với tê giác, xích thược, đan bì, sinh địa.

2  -    Sơn đậu căn chủ trị răng, lợi răng sưng, đau.
           Bản lan căn chủ trị bệnh ở môi, đại đầu ôn.

           Như "Lý Đông Viên đích phổ tế tiêu độc ẩm" trị đau đầu thiên hành, lúc mới thấy ghét hàn, thể trọng, sau chuyển đến đầu, mặt sưng phù nặng, không mở được mắt, lên cơn suyễn, yết hầu, cổ họng không lợi, miệng khát, lưỡi táo.
           « Toàn quốc trung thảo dược hối biên" trị bệnh má. Dùng bàn lan căn, hoàng cầm, liên kiêu, hạ khô thảo, huyền sâm, mã bột, bạc hà, cát cánh, sinh cam thảo.

 3   -    Sơi đậu căn chủ trị lỵ, bịnh trĩ
           Bản lan căn chủ xuân ôn, thử ôn (tương đương như lưu hưng, ức hung)

            Sơn đậu căn hạ giáng hỏa ỏ vị tràng, thanh nhiệt táo thấp dùng chữa các bệnh thấp nhiệt, hạ lỵ, trĩ.
            Bản lan căn thanh nhiệt bên trong, và giải tà bên ngoài, lương huyết, giải độc, dùng chữa ôn bệnh (bao gồm bệnh ức hung, lưu hung) nhiệt rất thịnh. Nhu "Đại thanh diệp, bán lan căn họp tễ  (đại thanh diệp, bản lan căn, kim ngân hoa, sinh thạch cao, sinh địa, tri mẫu, cam thảo, địa long)  sắc nước uống trị bệnh ức hung, lưu hung, nhiệt thịnh  (Tân y dược 1972)

   4  -   Sơn đậu căn ức chế các chủng  lọai mụn nhọt nếu biết sớm.
           Bản lan căn chủ trị can viêm, gan đang mềm hóa ra rắn

           Như "liệu ninh thường dùng trung thảo dược thủ sách" trị bệnh viêm gan, dùng bản lan căn sắc nước uống.
           Trị can ngạnh hóa ( gan đang mềm hóa ra rắn) dùng bản lan căn phối hợp với nhân trần, uất kim, y dĩ, sắc nước uống.

Đặc thù sử dụng khác nhau
           Đặc thù sử dụng của sơn đậu căn đã nói ở mục « mã bột cùng sơn đậu căn »
Lâm sàng báo : bản lan căn trị hết nốt ruồi : dùng 50% bản lan căn chế thành thuốc nước để tiêm dưới da, mỗi lần 2 hào thăng. Mỗi ngày 1 đến 2 lần. Từ 10 đến 20 ngày là một quy trình điều trị. Hiện đã trị 45 ca, 29 ca khỏi hẳn hoặc tiến bộ.