Mã sỉ hiện cùng Bạch đầu ông


         Công hiệu khác nhau

             Mã sỉ hiện thanh nhiệt giải độc: Về công dụng lương huyết, chỉ lỵ so với bạch đầu ông cũng tương tự. Nhưng mã sỉ hiện chua hàn, hoạt lợi, hay dùng thanh lợi nhiệt độc ở đại tràng, lại hay tán huyết, tiêu thũng. Trong điều trị nặng dùng về can, tỳ, đại tràng.
             Bạch đầu ông đắng hàn giáng tả; sở trường thông giáng được uất nhiệt ở tràng vị mà khỏi đựọc bệnh lỵ. Lại hay tán kết tiêu thũng. Trong điều trị nặng về đi vào can, vị, đại tràng.


           Chủ trị khác nhau

 1 -     Mã sỉ hiện trị nhiệt dộc, huyết lỵ

          Mã sỉ hiện thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ lỵ.
          Dùng chữa nhiệt độc uất trệ ở đại tràng sinh ra bệnh hạ lỵ, nùng huyết.
           Như  “Thánh huệ phương"  cháo mã sỉ (lấy nắm to mã si diệp thái, cùng với gạo nếp 3 hợp nấu thành cháo, không cho muối, lúc đói ăn nhạt để chữa bệnh lỵ ra huyết. Mã si tiễn tễ (lấy 500 khắc mà sỉ tươi rửa sạch, cho 400 hào thăng nước vào đun lấy 500 hào thăng hoặc 500 khắc mã sỉ hiện với 2000 hào thăng nước, đun cạn lấy 1000 hào thăng. Mỗi ngày một lần mỗi lần từ 40 đến 50 hào thăng để chữa bệnh lỵ có hiệu quả tốt.
            Bạch đầu ông thông giáng hỏa độc, uất trệ, không những chữa được nhiệt độc bệnh huyết lỵ.

 2  -    Mã sỉ hiện trị các bệnh sang độc thũng

          Mã sỉ hiện lương huyết giải độc, tán huyết, tiêu thũng.
          Dùng chữa bệnh sang thũng độc.
           Như "điền nam bản thảo" trị bệnh ác sang lâu năm, dùng mã sỉ hiện giã nhỏ đắp vào. Dùng cho bệnh đau ruột, lấy một nắm mã sỉ hiện tươi rửa sạch giã nát vắt lấy nước 30 hào thăng, cho thêm nước giếng 100 hào thăng, đường trắng một lượng vừa phải. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 100 hào thăng (Phúc kiến trung y dược 1961-3)
           Bạch đầu ông trị hoạt huyết, tán kết, dùng cho các bệnh nhiệt ủng, huyết ứ, sinh ra các chứng.
           Như "Thánh huệ phương" trị thực thần hiệu phương: nguyên hoa, bạch đầu ông, can khương, mạch nha.

3  -    Mã sỉ hiện trị đới hạ, nhiệt lâm
          Bạch đầu ông trị ôn ngược.

          Mã sỉ hiện chua hàn, hoạt lợi, dùng chữa thấp nhiệt đới hạ đến bệnh nhiệt lâm.
          Như "Thương hải tập nghiệm phương” trị xích, bạch đới lạ. Dũng mã sỉ hiện giã nát vắt lấy 3 đại hợp nước hòa với lòng tráng trứng gà (1 quả) trước thi ôn, cho nóng, lấy nước mã sỉ hiện còn hơi ôn uống ngay.
          “Thánh huệ phương”  tự tiểu tiện nhiệt lâm chứng, mã sỉ hiện giã vắt nước uống là khỏi.
            Bạch đầu ông đắng hàn, tả đi xuống, thanh nhiệt, giải độc. Dùng chữa chứng ôn ngược cuồng dịch.
            Như "Bản thảo hối ngôn" trị bệnh ôn ngược, hôn mê như chết. Dùng bạch đầu ông, sài hồ, bán hạ,  hoàng cầm, bình long, cam thảo sắc nước uống.

 4  -     Má sỉ hiện trị bệnh phúc tả
           Bạch đầu ông chủ trị âm

            Mã sỉ hiện thanh lợi, chữa nhiệt độc ở đại tràng rất hay. Thích ứng dùng vào nhiệt độc ở đại tràng và phúc tả, có thế dùng một vị mã sỉ hiện sắc nước uống, hoặc gia thêm một ít đường cho vào mồm khi uống thuốc.
           Bạch đầu ông vào can kinh, giáng và tả nhiệt ủng ở đại tràng và can, thông dương cơ khí, nên dùng cho bệnh âm.
             Như "Tiểu phẩm phương”  dùng rễ bach đầu ông, không kể nhiều hay ít, giã nát vắt lấy nước, đắp vào chỗ đau để chữa chứng âm.

Đặc thù sử dụng khác nhau

             Qua lâm sàng : Mã sỉ hiện có thể co rút được tử cung. Đối với bệnh hậu sản ra huyết,  dùng mã sỉ hiện đã chế thành thuốc nước để tiêm dưới da, chữa được chứng tử cung suất huyết sau khi đẻ (tiêm 2 hào thăng) (Mỗi hào thăng tương đương với 1,5 đến 3 khắc thuốc sống); nếu đem so sánh thi thấy người khỏe hơn trước.
             Mã sỉ hiện đường tương 100 hào thăng chỉa làm 3 ngày uống, mỗi ngày 4 lần, sau một kỳ 3 ngày bệnh đã thấy giảm nhẹ.
            "Bản thảo cương mục" trị tiểu nhi đầu trọc không có tóc. Dùng mã sỉ hiện nấu thành cao bôi vào, hoặc đốt thành tro hòa với mỡ lợn sát vào.
            "Vệ sinh dịch giản phương'" chữa bệnh trĩ ngoại sưng đau. Dùng rễ bạch đầu ông giã nhỏ đổ vào.