Mạch Thận xuất hiện ở ba bộ

Ba bộ đều trì là thận tạng hàn, da khô sít, lông tóc khô rom.

Mạch trì thuộc âm, trì quá thì tạng có hàn. Ba bộ đều trì nên uống Quế Phụ Lý trung thang.

Mạch thận


Mạch thận tán là ngang eo lưng có khí ngưng trệ; mạch sắc và hoạt đi đái nhiều, trong hai chứng mạch tuy có tụ và tán khác nhau nhưng không nên bằng vào những điểm đó, nên cho uống Bát vị hoàn. Mạch thực hoạt thì tiểu tiện đỏ ít, đau buốt trong ngọc hành, đó là hỏa tràn lấn vào vị trí của thủy. Trương Khiết Cổ nói: nên cho uống Bát chính tán.

Mạch thực đại là bàng quang có nhiệt, tiểu tiện gắt. Mạch thực đại là mạch dương. Thận ở bộ vị âm, mà thấy hiện mạch dương, là dương tràn vào âm, cho nên nóng ở dưới, bàng quang có nhiệt, cho nên tiểu tiện đỏ ít không thông. Mạch thận thực đại nên uống Bát vị tiêu dao tán, nếu không có công hiệu thì uống Lục vị thang.

Mạch hoạt huyền thì ở lưng sườn nặng trĩu. Mạch trầm khẩn thì lưng sườn bị đau. Hoạt huyền là mạch phong thấp; Trầm khẩn là mạch phong hàn. Phong thấp thì trệ cho nên nặng nề; phong hàn thì khí ngưng đọng cho nên đau. Mạch huyền hoạt là mạch phong thấp, cho nên uống Trừ thấp thang . Mạch trầm khẩn là mạch phong hàn, nên uống Phụ tử lý trung thang. Mạch thận trầm nhu mà hoạt. Nếu nó chỉ hiện ở bộ vị thận là bình thường là thuận, cho nên không có bệnh.

Mạch thận phù khẩn thì tai điếc. Thận có phong thì hiện mạch phù khẩn. Thận khí thông ở tai, bị bệnh phong hàn cho nên tai không nghe thấy gì, nên cho uống Lục vị gia Xương bồ.