Mạch Can xuất hiện ở ba bộ

Ba bộ đều huyền là can khí có thừa, trong mắt đau nhức, bụng dưới kết đau. (Mạch huyền xuất hiện ở cả ba bộ là can khí có thừa. Can khai khiếu ở mắt, nên khi can khí có thừa thì mắt nhức đau; Đường kinh của nó thì đi quanh tiền âm, khí lên bụng dưới cho nên có bệnh thì đau trằn bụng dưới.

Khi giận bực trong lòng muốn thét to lên, mắt kéo màng che khuất con ngươi, nước mắt chảy ra. (Can khí có thừa thì hay giận bực, tức trong lòng thường muốn thét to lên. Can khí có thừa, khí sinh phong, phong nhiệt công lên trên mắt kéo màng che khuất con ngươi mà chảy nước mắt không ngớt, nên uống Tiêu giao tán gia Cúc hoa hoặc Lục vị thang gia Đương quy, Bạch thược.


Nhuyễn và huyền là không có tà. (Đó là mạch hơi huyền gọi là can bình hòa, còn dưới đây đều là mạch can bệnh cả). Nên uống Lục vị gia Quế có tên là bài Thất vị.

Thấy mạch khẩn là có chứng gân căng cấp (thấy căng cấp) mà mạch tất thấy khẩn, mạch bộ can đi thẳng, nên cho uống bài Thất vị gia Mộc tặc.

Thấy mạch phù đại kiêm thực, mắt đỏ và mờ tối như có vật gì che lấp (Đó là trong mộc có hỏa) cho uống Tiêu giao tán gia Hoàng cầm hoặc uống Long đởm tả can thang.

Mạch Dật từ bộ quan dập quá thốn khẩu thì chóng mặt, mờ mắt, nặng đầu và đau gân (Mạch ở bộ quan lên đến trấy tay). Mạch tràn qua thốn khẩu là mộc thịnh mà phong nổi dậy. Gân thuộc mộc, thốn bộ là chỉ vào bộ phận trên có bệnh, chóng mặt, mờ mắt, nặng đầu và đau gân, nên uống Tiêu giao tán gia Thanh bì bỏ Bạch thược.

Thấy mạch khâu thì mắt mờ tối, hoặc thổ huyết, chân tay khó duỗi không đi được. (Mạch khâu chủ về huyết ngừng trệ không lưu hành; bộ can đi mạch khâu là can không đưa được huyết để nhuần tưới cho nên mắt tối, huyết ngưng trệ thì không về kinh được hoặc trào lên, hoặc thổ huyết mà không nuôi được gân, thì gân lợi không tự cầm giữ được, nên uống Lục vị thang gia Táo nhân để dẫn huyết về can kinh.

Can mạch sắc là vì huyết hư mà tản tác đi, sinh ra sưng gân, sườn đầy tức. (Mạch sắc thuộc kim; kim đến khắc mộc. Can hư không tàng được huyết, cho nên gân sưng, sườn đầy tức, sườn là thuộc bộ vị của can mà kinh của nó cũng ở chỗ đó, nên uống Lục vị thang).

Hoạt là can nhiệt, liên hệ tới đầu mắt. (Mạch can hoạt là can có nhiệt, can khí thông vào mắt, kinh nó lên đến đỉnh đầu, cho nên liên hệ tới đầu mắt). Can nhiệt nên uống Bát vị Tiêu giao.

Khẩn, Thực, Huyền, Trầm là có huyễn tích. (Bộ can thấy có bốn thứ mạch này, là có sinh ra bệnh huyễn tích. Huyễn là có khối mà ấn vào thì không có gì. Tích là trong ruột đau đi lỵ ra máu và đờm; đều là bệnh ở bụng dưới). Bộ can thấy bốn thứ mạch này thì nên uống Tiểu kiến trung thang.

Mạch vi nhược phù tán là can khí hư mắt mờ tối nẩy đom đóm, không nhìn lâu được. (Can khí bị hư nhìn lâu lóa mắt uống Định tâm thang kèm với Bát vị hoàn).

Mạch phù quá, gân yếu người không sức, gặp phải mạch này thì chân tay mềm yếu. (Mạch can phù quá là kim vượng mộc suy; mộc suy thì gân bị thương, mà không thể tự duy trì được vững chắc. Mạch can phù nên uống Tiêu dao tán. Nếu thấy bụng trướng nên dùng bài Gia vị Bồi thổ cố trung thang.